Nước của người họ Hùng còn gọi là Hữu Hùng quốc là lúc khởi
đầu Thiên hạ chỉ có miền đất gọi là ‘ chỗ giữa ‘ , tư liệu ghi chép
bằng chữ Nho đọc theo lối đọc của người Hán lộn ngược
thành ra ‘Giao chỉ ‘ .
Đất ‘Chỗ giữa’ phần ở về hướng Xích đạo gọi là đất màu
đỏ chép bằng chữ nay đọc là Đào ,
đất Đào , châu Đào cũng gọi là đất Cao .Phần ở hướng ngược lại gọi
là đất Thường , thường nghĩa là bình thường , thường thường không
phải là chữ Thường trong thường hằng , đọc sai đi thành ra Đường , tư
liệu cổ viết khởi thủy thiên hạ có đất hay châu Đào Đường tức đất
Đào và đất Đường là thế .
Sử thuyết Hùng Việt xác định đất Đào là
vùng Thanh Nghệ Tĩnh và đất Thường hay Đường là vùng lưu vực sông Đà
ngày nay khi ấy chưa hình thành đồng bằng Bắc bộ mà còn là vùng
đầm lầy của sông gọi là đất ‘giồng’
, tư liệu Hán văn viết thành đầm Vân và đầm Mồng , thực ra Vân
mồng thiết vồng cũng đọc là giồng nghĩa là vùng đất còn bị nước
vây bọc , lịch sử Trung hoa đã bị đám phù thủy chữ nghĩa gây rối loạn bằng thủ pháp ....thay từ gốc bằng phiên thiết Hán văn khiến cho người đọc
không thể nhận ra thông tin địa lí mang trong bản thân Từ gốc .
Thời Sơn tinh – Thủy tinh của truyền thuyết
Việt tức thời ông Đại vũ trị thuỷ
trong cổ sử Trung hoa là thời hình thành Đồng bằng Bắc bộ , đất Vân
– Mồng thiết Giồng thành ra đồng ruộng ; Thượng Thư chép : đầm Vân
đầm Mộng nay đã trồng trọt được ...
Thủ lãnh cộng đồng sống trên đất Đào là ông
Cao Giao (giao – giữa), cầm đầu người đất Thường là ông Giao Thường
trong cổ sử Trung hoa là đế Đường Nghiêu , người Việt gọi là đế Nghi
, Thời kì trung tâm đất nước chuyển về đất Thường cổ sử Việt gọi
là thời Nam triều và đế Nghi hay Đường Nghiêu được tôn là Nam bang triệu
tổ (Triệu > chậu > chủ >
chúa).
Sử thường viết đi liền 2 triều gọi là thời
Đường – Ngu , Ngu chỉ triều đại Ngu Thuấn , Ngu biến âm của ‘ngay’ trong
‘ngay thẳng’ chỉ nét thẳng phương Nam đối lập ‘cong vòng’ của hướng Xích đạo , Ngu
Thuấn còn có tên là Diêu trọng Hóa cũng là Diêu Trùng Hoa , trọng
Hóa không hiểu mang nghĩa gì nhưng chắc chắn Diêu là biến âm của Giao
tức Giữa và hóa là hoá thành .
Sau Ông Giao Thường và ông Diêu trọng Hóa đến
đời ông Đại Vũ sử Trung hoa gọi là
tổ nhà Hạ , Đại Vũ muốn chuyển giao chức thủ lãnh lại cho ông Cao
Giao nhưng ông Cao Giao đã mất nên
ngôi thủ lãnh định truyền cho ông bá Ích là con ông Cao Giao .
Đại Vũ vua lớn là tên ‘chữ’ còn tên ‘Nôm’ của
ông là Cao Mật , chính xác là Cao Một tiếng Việt nghĩa là vua chúa đầu tiên của vương
quốc Thiên hạ .
Ông Khải hay Khởi con ông Giao Thường không tuân
theo di mệnh của cha mà dựa vào tộc người phía Nam xưa (nay lộn ngược
gọi là Bắc) là tộc Lạc - nác - nước (Dịch tượng chỉ phương Nam –
Nom) và tộc Long ở phía Đông , hậu duệ của Kinh Dương vương và Long nữ tranh ngôi vua
với ông Bá Ích khiến ông bá Ích phải tránh đi dẫn dân mình lưu vong , sử viết ...sau 5
lần dừng chân cuối cùng định cư ở Kì sơn nay thuộc Qúi châu .
Đây là cuộc phân tranh đầu tiên trong lịch sử
Hữu Hùng quốc truyền thuyết Việt ghi nhận là cuộc chiến Hùng – Thục
lần thứ 1 với chiến thắng của Hùng vương , cổ sử gọi vua là Lạc –
Long quân tức thủ lãnh 2 cộng đồng phía Nam và phía Đông xưa, truyền tích đạo Mẫu gọi là Vua cha
Bát hải động đình (Bát hải nghĩa
là biển Đông , Động – [đình hồ] cũng nghĩa là biển Đông) .
Ông Khởi (khởi đầu) viết sai thành Khải đã
lập nên vương triều đầu tiên của Thiên Hạ gọi là nhà Hạ dân gọi là
Hoa Hạ còn chiếu theo cổ sử phải gọi là nước Lạc Long vì phải có nước Lạc Long thì mới có Lạc
Long quân , ông tôn cha là Đại Vũ (nghĩa
là ông ‘vua lớn’) làm tổ các vương triều cai trị Thiên hạ (thường
hiểu sai là tổ nhà Hạ nên còn gọi là Hạ Vũ ) cuộc chiến Hùng –
Thục lần I kéo dài cả mấy trăm năm cho đến khi 1 vị vua nhà Hạ chế
ra được loại áo giáp chống lại cung tên của người Di Hạ con cháu ông
Ích thì người Di mới quy thuận chấm dứt chiến trận non sông liền 1
giải , Hoa – Di cùng 1 thiên hạ nhưng phân ra : Hoa ở Trung quốc còn Di
ở tứ phương .
Triều Hạ truyền đến Hạ Kiệt vô đạo thì dứt , vua Thành Thang người có
thánh đức kiến lập nhà Thương , thương nghĩa là màu xanh , theo Dịch
học là phương Đông .
Đất Giao chỉ – chỗ giữa được vua Thành thang
phong cho thứ nam gọi là nước Cao biến âm của cửu số 9 , cổ sử Trung
hoa ‘bị’đời sau dịch sang Hán văn là nước Sùng (sùng cũng là cao)
truyền được 5 đời chúa : Nghiêm - Tôn - Huề - Quyền - Cầm , Sùng Lãm
là vị chúa sau cùng của đời Sùng Cầm , cổ sử Trung hoa gọi là Sùng
hầu Hổ .
Nhà Thương truyền đến vua Bàn Canh kinh đô sau
cùng ở phía nam (nay) Trường giang là thành ‘can Tân’ thì Bàn Canh dẫn
dân vượt Trường giang đến kinh đô mới ở Bắc (nay) Trường giang là Bàn Canh long thành , người Hán cố
ý bỏ đi chữ Canh để phi tang bằng chứng
nên chỉ còn chép là Bàn long thành , (can Tân chỉ hướng Bắc xưa
và can Canh chỉ hướng Nam – nước theo thập can của Dịch học ) , Sử gia
Tàu trơ trẽn đảo ngược thành ra ...nhà Thương vượt Hà truyền bá văn
minh xuống phía Nam ....từ đó gọi là nhà Thương Ân có khi gọi tắt là
nhà Ân ...mập mờ , thực ra Ân – Ơn ở đây chỉ có nghĩa là số 2 đồng
nghĩa với nhị – nhì , nhà Thương Ân nghĩa chính xác là nhà Thương
thứ II mà thôi .
Ngày nay khoa học xác định phần lớn dân nhà
Thương chủ yếu mang di tố cha là O3 gốc gác từ người Hmông ,
người bắc Trường giang di tố cha vẫn là o3 nhưng so với
người Nam Trường giang thì di tố của dòng mẹ khác nhau . Cổ sử viết
...Bàn Canh dời đô qúy tộc nhà Thương không đồng tình , vua dẫn dân và
lính vượt sông đến đất mới lập nên nhà Thương Ân ..., sử viết vậy ta
có thể hiểu lính tráng và dân theo Bàn canh đến đất mới lấy vợ bản
địa sinh con đẻ cái ....mấy ngàn năm sau thì tạo ra sự khác biệt về
di tố theo dòng mẹ như đã biết .
Các vua Thương Ân có công rất lớn trong việc mở
rộng Thiên hạ ngoài việc vượt Trường giang mở ra 1 trời mới đất mới
cho người họ Hùng , Kinh Dịch viết
....Cao tông phạt Qủy phương là chỉ việc nhà Thương Ân mở rộng thiên
hạ về phía Tây Trung hoa ; qủy là biến âm củu (số 9 Dịch tượng chỉ
phía Tây , bát – số 8 chỉ phía Đông) tức cả 1 giải đất mênh mông từ
Tứ xuyên tới Thiểm tây ngày nay ,
công đầu trong việc Tây tiến thuộc về Vương Qúy nghĩa là chúa vùng
Qúy châu ; Kinh Dịch viết Cao tông ưu ái 1 ngày triệu kiến bàn việc
nước tới 3 lần ...; con của Vương Qúy là Cơ Xương được vua Thương Ân
phong làm Tây bá hầu ; toàn quyền cai quản miền Tây thiên hạ , Nhà
Thương Ân truyền tới vua Trụ thì sụp đổ .
Tây bá Hầu được cổ sử Việt gọi là Thục
vương (nghĩa là chúa đất phía Tây) kiến lập nước Âu – Lạc tức nước
của người Ai lao di ở Tây Nam Trung hoa và người Lạc Việt (ai lao thiết
âu) , sau ‘Thục vương tử’ Cơ Phát
người Việt gọi là Thục Phán diệt Trụ Kiến lập triều đại Châu , Cơ
Phát tôn phong cha tước Châu Văn vương
, thường gọi là Văn vương tức Văn
lang trong lịch sử – văn hóa Việt ,
nước do Văn lang kiến lập cũng gọi là nước ‘Văn Lang’ , sang thời Cơ
Phát – Thục Phán Văn lang Âu - Lạc trở thành Trung hoa của Thiên hạ
nhà Châu . Cổ nhân đã truyền lại
thông tin rất rõ ràng về lãnh thổ nước Văn lang , Viết theo địa
danh Trung quốc thì :Bắc giáp Động đình hồ , Nam giáp nước Hồ Tôn ,
Tây giáp Ba Thục , Đông giáp Nam Hải
tức các tỉnh Qúy châu Vân Nam Quảng Tây cộng với Bắc và Bắc Trung
Việt ngày nay .
Châu Văn vương là 1 trong tứ thánh Dịch học nên
còn có tên là An – Dương vương tức do Âm – Dương vương biến ra .
Nhà Châu là thời hình thành cốt lõi nền văn
minh Trung hoa còn ảnh hưởng đến tận ngày nay gọi chung là nền văn
minh phương Đông đặt căn bản trên Dịch lí , vương pháp thì theo Phụ đạo
, văn hóa vật thể tiêu biểu là Trống đồng , nhà mái cong .v.v.
Nước Văn lang kinh đô ở Phong châu , sử Trung hoa
gọi là đất Phong , sau Châu Vũ vương thành thiên tử của Thiên hạ đời
đô về đất Kiểu – Cửu tức phía Tây có thể là Côn minh ngày nay , chính
xác phải gọi là Côn Ninh , côn là vua , Ninh vương là tước hiệu của
Châu Vũ vương .
Khoảng năm 770 trước sức ép của rợ Khuyển
Nhung Châu Bình vương lại dời đô về đất Phong như câu thơ :
Kiểu ngoại bách Man (Việt) hoàn Cổ Lũy (Loa ) .
Đông đô nhà Châu rất có thể chính là Đông đô
Hà nội ngày nay chính là thời mà khảo cổ học Việt nam gọi là thời
văn hóa Đông sơn .
Nhà Châu cũng bắt đầu thời ‘phong tước kiến
địa’ , thiên hạ hình thành Trung quốc và trăm nước chư hầu sau thời ‘thuộc Hãn’ dân
các nước chư hầu vùng Hoa Nam được gọi là Bách Việt tức trăm
giống “Việt - diệt - nhiệt – vùng nóng” đối lại với Trung nguyên ở 2 bên bờ
Hoàng hà đã bị nòi Liêu - Hán
chiếm gọi là Bách Mun - Man hay Nam Man tức các nước dòng Mông –
Mãn gọi chung là rợ Hồ phía Bắc Trung quốc ngày nay (hung nô thiết
hồ) .
Chư hầu Tần ở Tứ xuyên trở nên hùng mạnh bắt đầu ý đồ bá chủ
Thiên hạ bằng mưu toan cho con Tần
vương là Doanh tử Sở cầu hôn công
chúa nhà Đông Châu là Mị châu và Tử Sở được gửi rể ở kinh đô Đông
châu ..., sự việc được dân gian tiểu thuyết hóa thành truyện tình đẫm
lệ Trọng Thủy – Mị Châu , nhà Châu mất nước , sử Việt sai lầm chép
Trọng Thủy là con Triệu Đà vua Nam Việt ...thế là dòng sử Việt lệch
hướng xa dần không còn thông tin để móc nối với lịch sử Trung hoa ...sự
thể mấy ngàn năm sau mới nhận ra ..., Nhà Tần lấy hành Thủy làm
hành chủ đạo , trọng chỉ ra sự thể Tử Sở là con trai thứ II theo
thứ tự mạnh - trọng - qúy , từ
kép Trọng thủy đã điểm mặt chỉ tên : Trọng Thủy là con trai thứ II
của Tần vương (hành thủy) , Mị châu
là con gái vua Châu thì nghĩa đã qúa rõ khỏi phải luận hay suy gì
cả (lang là con trai vua , mị là con gái vua) , việc Trọng Thủy lừa
Mị Châu ... cho ra đời 2 chữ Sở khanh trong dân gian Việt cũng là 1
bằng chứng cho sự việc . Tần diệt nhà Châu năm 256 còn trong sử Việt
Triệu Đà diệt An Dương vương chiếm nước Âu Lạc năm 257 cũng là 1 bằng
chứng sáng gía (vênh nhau 1 năm có thể là do dùng 2 loại lịch khác
nhau).
Tần là tên nước không phải họ , cũng như
Triệu là biến âm của chủ – chúa tiếng Việt hay Chậu tiếng Thái –
Lào nghĩa là vua chúa mà thôi , sử gia Việt đã lẫn chữ Triệu vua
Tần với Triệu Đà ,Tần thủy hoàng là Triệu Chính nên mới nên cớ sự
, thực ra Tổ tiên nhà Tần mang họ Đinh , chính là họ Đinh của Đinh
tiên hoàng vua Việt , Tiên hoàng
Thuỷ hoàng cùng 1 nghĩa vua đầu mà thôi .
Sử Việt có tới 3 triều Đinh
· Nhà
Tiền Đinh với vua Đinh tiên hoàng dẹp loạn 12 xứ quân thống nhất giang
sơn ; trong sử Trung hoa là triều Tần của Tần thủy hoàng .
· Nhà
Đinh vua Đinh Hoàn sử Trung hoa gọi là Cao tổ Vũ vương Vũ văn Ung nhà
Bắc Châu thời Trung hoa phục sinh.
· Nhà
hậu Đinh của Đinh bộ Lĩnh , Đinh bộ lĩnh không phải họ tên mà là
tước hiệu nghĩa là thủ lĩnh phần đất phía Tây nước
Đại việt , Sử thuyết Hùng Việt gọi
là Lí công Uẩn III tức ông Lí làng Diên Uẩn .( Lí công Uẩn I
là Lí Uyên tổ nhà Lí Trung hoa , Lí công Uẩn II là Lưu Ẩn người khởi
lập nước Đại Việt đô ở Phiên Ngu – Quảng châu).
Sau Đinh tiên hoàng – Tần thủy hoàng là cuộc
Hán – Sở tranh hùng , Hán – Sở chẳng qua là cặp lưỡng phân Hên – sui ,
Hơn – thua , Hưng – suy , Lí Bôn – Lưu Bang thắng nên là Hưng vương – Hơn
vương sử Tàu tròng tréo chữ nghĩa thành ra Hán vương , kẻ thua là sui
– sở vương .
Hưng vương đô ở thành Đại Hưng (sau là Tây An)
lập nên triều đại Hiếu (tất cả vua
đều mang miếu hiệu Hiếu) bị sử gia
Hán tộc mập mờ đánh lận con đen ...đổi thành nhà Tây Hán hay Tiền
Hán ... nhưng Kì lạ Lí Bôn- Lưu Bang chỉ được sử gọi là Hiếu cao tổ
tức chỉ công nhận ông là người lập ra Hiếu quốc không phải là vua
Thiên hạ .
Hiếu Cao lập đô trên đất vốn là đất Hung nô
trước và phần nào phải dựa vào đạo quân gốc người
Hung nô để thắng Sở vương , có thể ông
cũng có thê thiếp người Hung nô nên Hiếu Cao đối đãi bình đẳng không
phân biệt dân gốc Hoa hay Hồ .
Hiếu Cao mất Lữ hậu nắm thực quyền cai quản
triều chính nước Hiếu đã phá lệ
phong vương cho đám cháu mình và bố trí vào những chức vụ quan trọng
...triều đình chia làm 2 phe : phe cựu
thần thời Hiếu Cao và phe con cháu họ Lữ ..., lên đến cao độ khi Lữ
hậu chết ‘súng ống’ nổ ra ... phe họ Lữ sử gọi là Lữ gia thất bại
ở kinh đô nhưng làm chủ phía Nam tôn 1 con hay cháu Lí Bôn làm vua lập
nên triều đình phía Nam đô ở Quảng châu đối chọi với phía Bắc sử
gọi là nước Nam Việt và thật lạ
kì Lí Bôn được sử công nhận là ông
tổ nướcNam Việt đồng thời là vua thiên hạ với tước hiệu Triệu Vũ
đế trong khi ở nước Hiếu phải đến
khi Lưu triệt làm vua 141-87 TCN đánh bại Nam Việt thống nhất Thiên hạ Lưu
Triệt mới được gọi là Hiếu vũ đế tức nhà Hiếu từ Lưu Triệt về sau
mới được công nhận là chủ thiên hạ
.
Vương Mãng cướp ngôi nhà Hiếu có chính sách
phân biệt chủng tộc , Hạ cấp các vua Hung nô chư hầu từ tước vương
xuống tước hầu , triệt để nhất là cấm người họ Lưu làm quan ...sử
viết thế thực chất là coi người Liêu (liêu > Lưu) là dân bị trị không được bình đẳng với người
Trung hoa .
Vương Mãng nhà Tân là vua cai trị duy ý chí ,
cứ theo ý định của mình bất kể chuyển biến khách quan của xã hội ,
muốn đi đường tắt tới 1 xã hội đẹp tốt như mơ ...cuối cùng lôi dân
chúng xuống địa ngục ...., oán thán khắp nơi cộng thêm với thiên tai
mất mùa khiến tình hình xã hội trở nên cực kì rối loạn , lợi dụng
cơ hội này bọn người Liêu ngoại chủng kết bè lập ra đám cướp núi
dân Trung hoa gọi là ‘Lục lâm thảo khấu’.
Đắc thời ...giặc cỏ chiếm được kinh đô Trường
an giết Vương Mãng lập nên Hãn quốc đầu tiên của rợ Hồ , vua là Canh
Thủy đế , Lục lâm thào khấu trở thành Hán quân .
Trung hoa không có vua Vương Mãng chỉ có vương
mãn , đấy là tên bị đám ‘ caọ sử gia’ tráo đổi bằng từ phiên thiết ; vương mãn thiết vãn tiếng
Việt nghĩa là hết – chấm dứt , chính vì điều này Sử thuyết Hùng
Việt cho nhà Tân là Hùng triều thứ 18 , Vương Man là Hùng Duệ vương .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét