Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham khảo 4. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham khảo 4. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Lạc Long Quân trở về

 Nguồn https://bahviet18.com/2025/01/28/lac-long-quan-tro-ve/

Bạn biết gì về thủy tổ Lạc Long Quân và thời đại những người con theo Cha Rồng xuống biển?
Năm Giáp Thìn 2024 đã qua, năm Ất Tỵ 2025 đã đến. Cha Rồng Lạc Long Quân lại hiện thân trở về với miền sông biển Việt Nam qua cuốn sách dày hơn 670 trang mang tên Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị do Nhóm Nghiên cứu Di sản Văn hóa Đền miếu Việt biên khảo.
Lạc Long Quân trở về Anh-bia-lac-long-quan
Trong cuốn sách bạn sẽ biết Liễu Nghị – ông là ai? Việt Nam Lạc Thị là những vị quốc tổ nào? Vua cha Lạc Long Quân được thờ phụng dưới những tên gọi nào? Thần Chính khí Long Đỗ của Thăng Long có nguồn gốc ra sao?… Bạn cũng sẽ biết Thủy phủ công đồng trong Tam phủ, Tứ phủ gồm những ai. Động Đình Long Mẫu, Động Đình Đế Quân, Động Đình Bát Hải Long Vương, Ngũ vị Tôn quan, Hà Bá Thủy quan… là những vị tiên tổ nào của người Việt.



Những vị tiên thánh của thời kỳ Lạc Thị Hồng Bàng được khái quát và được định vị một cách độc đáo trong cuốn sách. Đó là Ngũ phương thiên đế ở khắp tứ hải trong Đạo Giáo từ khi Đạo mới hình thành. Đó là các vị thần Tứ trấn của các kinh đô Thăng Long, Hoa Lư. Đó là vị thần bất tử Chử Đạo Tổ của miền đầm nước Dạ Trạch. Những tín ngưỡng thờ thủy thần này xuất phát từ lịch sử đã ăn sâu vào tâm thức dân gian, trở thành nền tảng trong văn hóa Việt.
Ngay cả tín ngưỡng dân gian ở khu vực Thanh Oai, được biết với tên gọi Sa Môn giáo cũng được dẫn tư liệu gốc Bách Việt triệu tổ cổ lục (hay Cổ Lôi ngọc phả truyền thư). Đồng thời tư liệu này cũng được phân tích, đối sánh một cách xác đáng với lịch sử Việt thời Lạc Thị.
Cũng trong cuốn sách này bạn sẽ được tiếp cận với những tư liệu Hán Nôm đầy đủ về thời kỳ lập quốc 4.000 năm của người Việt. 10 bản ngọc phả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau được giới thiệu nguyên văn và dịch nghĩa trong cuốn sách. Qua đó bạn có thể đọc những ghi chép gốc về Ngọc Nương Thánh Mẫu Thủy cung ở đền Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ; về Vua cha Bát Hải ở đền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bình; về Tam Lang Long hầu ở đình Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ; về Bạch Hạc Tam Giang ở đình Đa Chất, Phú Xuyên; về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương trong vùng tín ngưỡng Việt Nam Lạc Thị ở Thuận Thành, Bắc Ninh; về Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế bên sông Hồng…
Không dừng lại ở đó, cuốn sách cung cấp cho bạn những hiểu biết và nhận thức một cách có hệ thống và khoa học về lịch sử các dân tộc. Đó là sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước với Dịt Dàng, Lang Cun Cần, Tòng Ín… Là sử Dao với Bàn Vương, thủy tổ 12 họ người Dao. Đặc biệt, cuốn sách công bố tư liệu điền dã trực tiếp rất chân thật về tín ngưỡng và lịch sử Lạc Việt của người Choang ở Quảng Tây. Đây là lần đầu tiên những tư liệu, những hiểu biết này được công bố rộng rãi tới công chúng.
Cuốn sách cũng đã tổng hợp các di tích thờ thủy thần của các tỉnh miền Bắc dọc theo lưu vực các con sông lớn, mà lớn nhất là dòng sông Hồng, vốn được tôn thờ trong tín ngưỡng dân gian là Tam Đầu Cửu Vĩ Long vương. Từ thượng nguồn ba sông Đà Lô Thao ở Yên Bái, Tuyên Quang, vùng đất Tổ ngã ba Việt Trì, Phú Thọ, qua vùng rốn rồng Thăng Long Hà Nội. Vùng lưu vực tả và hữu ngạn sông Hồng ở Hà Nam, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương. Vùng ven biển Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh thờ các vị Hải thần. Vùng trung du ở Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Thái Nguyên thờ các vị sơn thủy thần. Đến cả những nơi tưởng chừng không có liên quan tới thời Lạc Long Quân như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, hóa ra lại là những nơi còn lưu những dấu tích cổ xưa nhất, nguyên sơ nhất về 4.000 năm dựng nước.
Thời kỳ Lạc Long Quân dựng nước bên bờ biển Đông tưởng chừng như đã chìm vào bị quên lãng, nay đã trở nên sống động, chân thực, với từng nhân vật, từng vùng đất, từng sự kiện trong cuốn sách. Năm Ất Tỵ 2025, các vị thủy thượng linh thần lại một lần nữa hiển hiện trên cõi Dương gian, đức Vua cha Lạc Long Quân lại trở về với nòi giống Việt, đem lại niềm tin cho con dân Việt với tiên tổ, với quá khứ vẻ vang và có sự phù trợ của tiền nhân mà vững bước trước tương lai.



Bạn đọc có thể đặt trước cuốn sách Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị theo đường dẫn dưới đây: https://forms.gle/RNn7snBCcg3N3YTEA
Những bạn đặt trước ngày 15/2/2025 sẽ có được cuốn sách quý này tận tay với giá 300.000 đ ngay khi nó được xuất bản, thay cho giá bìa là 500.000 đ.
Toàn bộ kinh phí thu được từ cuốn sách sẽ được Nhóm Nghiên cứu Di sản Văn hóa Đền miếu Việt sẽ sử dụng vào mục đích điền dã, thu thập tư liệu, biên soạn xuất bản những cuốn sách mới về cổ sử Việt.
Mọi liên hệ và trao đổi liên quan đến cuốn sách và đến thời kỳ Lạc Thị Hồng Bàng xin liên hệ với trang facebook Hùng Việt sử quán hoặc theo Zalo Đền miếu Việt số 0559551003.
Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu
Tôi viết bài thơ đất nước tôi
Gian nan từ thuở mới ra đời
Ngọn gió Động Đình ru ta lớn
Trăng chiếu sông Đường nước đầy vơi
Trăm trứng Mẹ sinh dòng Bách Việt
Diệt quái Cha Rồng mở biển khơi
Lang Thang dân tiến chinh phương Bắc
Âu Lạc văn minh mãi rạng ngời.

Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-1Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-2Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-3Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-4Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-5

Thứ Ba, 31 tháng 12, 2024

Động Đình Long Quân ký

 Nguồn Động Đình Long Quân ký – Bách Việt trùng cửu

Biên chép về thời kỳ Long Quân Lạc Thị qua tổng hợp từ Truyện họ Hồng Bàng và các di tích, thần tích tín ngưỡng thủy thần trên đất Việt.
Xưa, cháu ba đời của Viêm Đế thuộc họ Thần Nông là Đế Minh, Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Một lần đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp được nàng Vụ Tiên, lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh, sớm trưởng thành. Đế Minh bèn lập Đế Nghi cai quản đất Bắc, phong Lộc Tục trị vì phương Nam.
Đế Minh được tôn là đời Hùng Vương đầu tiên với tên thờ là Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Đột Ngột Cao Sơn. Bà Vụ Tiên lấy vua Hùng ở Ngũ Lĩnh là Tây Thiên Quốc mẫu, đã gặp Đế Minh ở ngọn núi Phù Nghĩa trên dãy Tam Đảo. Đế Nghi là người kế tục Đế Minh, được tôn là đời Hùng Vương thứ hai với tên là Viễn Sơn Thánh Tổ, cai quản vùng đất Hồng Lĩnh ở phương Bắc xưa gần Xích đạo.
Lộc Tục nối tiếp ngôi vua, đóng ở vùng đất phương Nam xưa, tức vùng đất Lạc trên miền Bắc Việt ngày nay. Lộc Tục được tôn là Ất Sơn Thánh Tổ, là đời Hùng Vương thứ ba. Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục là 3 vị Hùng Vương Thánh Tổ được người Việt tôn thờ ngàn đời trên núi Hùng ở miền đất tổ Phong Châu.
Kế ngôi vị của Ất Sơn Thánh Tổ theo lối truyền hiền (truyền cho con rể) là Tản Viên Sơn Thánh, nhờ có công lớn trong quá trình trị thủy thời Đường Nghiêu, khi nước lũ ngập ngang trời. Sơn Thánh lên ngôi gọi là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, lấy hiệu là nước Xích Quỷ, tức là Thủy quốc. Người Mường gọi Sơn Thánh là Lang Cun Cần, lưu truyền ngàn đời trong sử thi Đẻ đất Đẻ nước về sự kiện Kinh Dương Vương khởi đầu lịch sử người Việt với hai dòng sơn thủy. Hùng Vương Ngọc phả gọi ông là Hùng Việt Vương, đời Hùng Vương thứ tư trong Cổ Việt Hùng Thị Thập bát thế. Lịch sử Trung Hoa gọi ông là vua Đại Vũ trị thủy bên bờ Long Môn tại Thác Bờ (Hòa Bình).

Kinh Dương Vương thường dạo chơi dưới Thủy phủ, sau lấy con gái Động Đình Quân Long Vương. Long Vương Động Đình Đế Quân cũng là Long Đỗ hay Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, là người mở đầu của Thủy quốc Động Đình ở vùng ven sông biển. Kinh Dương Vương được dòng Thủy phủ gọi là Long cung Liễu Nghị, người đã kết duyên cùng Xích Lân Long Nữ của Thoải phủ. Kinh Dương Vương theo đó còn được gọi là Bột Hải Long vương.
Hai người sinh ra Lạc Long Quân bên bờ hồ Động Đình. Lạc Long Quân được kể là hoàng tử Linh Lang ở hồ Dâm Đàm, vốn là nơi rốn rồng của Thủy quốc Động Đình.
Lúc ấy, ở vùng đất Hồng Lĩnh phương Bắc xưa Đế Nghi đã truyền ngôi cho con là Đế Lai. Khi Kinh Dương Vương mất, Đế Lai muốn nhòm ngó nước Xích Quỷ nên đã xâm nhiễu phương Nam xưa, người dân địa phương không được yên. Dân chẳng thể làm ngơ liền dắt nhau gọi Long Quân rằng:
– Bố ơi! Chúa xứ Bắc quấy nhiễu nhân dân khổ lắm!
Long Quân vội đến, có thần thuật ẩn hiện biến hóa ra muôn trạng, yêu tinh quỷ mị, rồng rắn, tê giác, voi. Những kẻ tìm đến đều sợ hãi không dám tiếp tục. Đế Lai đành phải bỏ về.
Đế Lai được dòng Lạc thị kể là quân Thục tấn công đất nước của Hùng Vương. Linh Lang cùng với Lục bộ Thủy phủ dâng nước đánh đuổi quân Thục, chiếm được vị trí chủ thiên hạ, đóng đô nơi hồ Dâm Đàm, đất Thăng Long.
Lạc Long Quân lên ngôi, là Vua cha của Thủy phủ, tức Bát Hải Động Đình Long Vương của trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Lạc Long Quân lập quốc lấy tên là Đào Hoa trang hay Hoa Hạ, lấy màu đỏ tượng trưng cho vùng đất ở gần miền Xích Đạo. Hùng Vương Ngọc phả gọi Lạc Long Quân là Hùng Hoa Vương, đời Hùng Vương thứ năm trong 18 đời vua họ Hùng.
Trong cuộc chiến này Lạc Long Quân được sự giúp đỡ của cả bên dòng Lạc của cha (Kinh Dương Vương) và dòng Long của mẹ (Thần Long Động Đình), nên khi lên ngôi vua lấy danh xưng là Lạc – Long Quân, tức là thủ lĩnh của cả 2 tộc người Lạc và Long.
Thủy quốc do Lạc Long Quân cai quản là khu vực các tộc người sinh sống dọc các nhánh của hệ thống sông Hồng và ven biển Đông thời cách nay trên 4.000 năm. Tên gọi Động Đình do đó gặp từ ngọn nguồn ba sông Đà Lô Thao, hợp lưu tại ngã Ba Hạc Việt Trì, rồi chia 9 nhánh theo cha Lạc Long về biển. Biểu tượng của Thủy quốc Động Đình là Long vương Tam Đầu Cửu Vĩ, hình tượng của dòng sông Hồng trên đất Việt cổ.
Trong cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân, đứng đầu bên dòng Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh là người chú Quý Minh đã cùng cháu đánh giặc và yên dân ở khắp nơi. Còn đứng đầu các bộ Thủy phủ Long cung là những người anh em sinh cùng bọc (cùng mẹ) của Lạc Long Quân. Do nước của Lạc Long Quân là Đào Hoa nên các vị Thủy quan này thường được chép mang họ Đào.

Trong số những vị Long hầu này vị có quyền hành lớn nhất là Thổ Lệnh Trưởng, quyền chưởng Trung Hoa Quốc tể, được gọi là Quan lớn Đệ Tam trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Người anh em có quyền lực thứ hai là Thạch Khanh, được gọi là Quan lớn Đệ Ngũ. Hai vị “sinh Bạch Hạc”, nên được gọi là các thần Bạch Hạc Tam Giang. Còn nơi thực ấp của Trung Thành Thổ Lệnh là ở vùng ngã ba Lảnh (Thường Tín – Hà Nam – Hưng Yên). Thạch Khanh hay Quan Tuần Tranh ban đầu tuần thú ở vùng sông Tranh (Hải Dương), sau bị dời lên miền sơn cước Lạng Sơn bên sông Kỳ Cùng.
Lạc Long Quân dạy dân cấy lúa trồng dâu, định tôn ti thứ bậc vua tôi, vợ chồng cha con theo đạo luân thường, khi về nơi sông nước, trăm họ sống vui vẻ tự nhiên, gặp việc cất tiếng gọi Long Quân bằng bố (tục phương Nam gọi cha là bố):
– Bố ơi! Ở đâu sao không ở đây sống với chúng con?
Tức thì Long Quân đến, dáng vẻ uy linh, cảm ứng khó lường.
Bắt đầu từ Lạc Long Quân, ngôi vị thủ lĩnh thiên hạ được định đoạt theo dòng phụ đạo, tức là cha truyền con nối. Vì vậy Lạc Long Quân được gọi là “Bố”, hay đức Vua cha của Thủy quốc.
Lại đặt tướng văn là Lạc hầu, tướng võ là Lạc tướng; con trai Vương là Quan lang, con gái Vương gọi là Mỵ nương; các ty gọi là Bồ chính, đầy tớ gọi là Xảo xứng. Đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo, chủ tướng tương truyền đều lấy hiệu là Hùng Vương mà không đổi.
Đất nước được chia thành nhiều vùng, mỗi vùng do một vị Long hầu phụ trách cai quản như lời Lạc Long Quân nói:
– Nay ta chia ra năm mươi người con quay về Thủy phủ mà chia trị các nơi, năm mươi người con theo nàng lên núi chia nước mà trị vì, lên non xuống biển có việc nghe được cùng giúp đỡ lẫn nhau, chớ được quên hẹn ước.
Bấy giờ, người ở trong rừng, chân núi đi bắt cá dưới nước thường bị giao long làm hại, liền nói với Vương bảo:
– Người Man ở núi với Thủy tộc khác biệt nhau, có kẻ xấu người tốt cho nên xâm hại lẫn nhau.
Vương liền lệnh cho thích mực vào người các hình trạng Long Quân, thủy quái thì giao long không dám cắn. Vì vậy, người Bách Việt có tục xăm mình.
Những vị thủy quan phụ trách cai quản các xứ do đó được thể hiện là những vị thần rắn hay Long vương. Suốt chiều dài thời gian của Lạc triều gần ngàn năm đã có nhiều vị thủy quan ở các khu vực. Tên tuổi, công nghiệp của họ do đó thường được gắn với sự tích sinh ra cùng bọc trứng, trưởng thành có khí chất như rồng như rắn, đánh giặc, trị thủy. Lúc hóa được tôn thờ là các vị thủy thần.

Thủa sơ khai, dân làm không đủ ăn nên lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy cây quan lang đồ lên ăn, bắt chim thú, cá tôm làm chất mặn, củ gừng làm chất cay, lấy dao, lửa canh tác (tức là đốt nương làm rẫy), phần lớn là lúa nếp, lấy ống tre bắn chim, gỗ làm nhà tránh thú dữ, cắt tóc để tiện đi vào núi rừng, sinh con thì bọc bằng lá chuối, chết thì lấy dùi đánh mõ làm hiệu, làng xóm nghe thấy chạy đến giúp. Nam nữ lấy chồng, lấy vợ trước tiên phải có gói trầu cau, rồi sau mới giết bò, dê làm lễ, lấy cơm nếp cùng nhau ăn cho hết mới thành thân. Về sau đường lối thông suốt. Trăm người con trai chính là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Dưới triều đại Lạc Thị, người Việt phát triển nghề nông tang, trồng lúa, trồng khoai, săn bắt chim thú, đánh cá ở sông biển, chăn nuôi bò dê, làm nhà gỗ, sống thành làng xóm, kết hôn lập gia đình, hình thành phong tục, lễ nghi, đường lối thông suốt. Lạc Long Quân cùng các vị Lạc hầu, Lạc tướng trở thành những vị thần tổ phù hộ người dân an cư lạc nghiệp ở miền đồng bằng.
Vào giữa thời Lạc triều, một vị quan Hầu đến từ vùng xứ Nghệ là Chử Đồng Tử đã tiếm ngôi dòng Lạc Thị, chặn đường Lạc Vương ở bãi Tự Nhiên bên bờ sông Hồng. Chử Đồng Tử lập nước riêng, gọi là Trạch quốc, đóng đô ở Khoái Châu (Hưng Yên), có nhiều quan quân theo về. Chử Đồng Tử xây dựng lâu đài, phát triển giao thương đường thủy, kết nối hai vùng đất Hồng và Lạc của thiên hạ. Chử Đồng Tử cũng phát huy lý thuyết Âm dương Ngũ hành, tròn vuông từ thời Tản Viên Kinh Dương Vương, học Tiên đạo từ vùng đất phía Tây (Tây Vương Mẫu – Tây Thiên Quốc mẫu) chữa bệnh, chữa lành cho nhân dân. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử “một đêm về trời”. Nước Đào Hoa Hạ dòng Lạc Thị lại trung hưng.
Lạc quốc không chỉ phát triển ra phía Đông ven biển mà còn lên phía Nam xưa (tức phương Bắc nay) sang vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông. Người Choang ở vùng này là dòng dõi Lạc Thị, tới giờ vẫn làm lễ tôn thờ Lạc Vương và Long Mẫu. Người Choang cùng nhóm dân tộc với người Tày Nùng ở miền Bắc Việt, nên việc thờ thần Rồng và Long Mẫu vẫn còn in đậm trong bản sắc những dân tộc này cho tới ngày nay. Thủ lĩnh Lạc Vương ở thời này đóng đô ở Dương thành tại Phiên Ngung (Quảng Đông). Giai đoạn Lạc thị Trung Hưng Hoa Hạ, mở nước về phía Đông Nam xưa được Hùng Vương Ngọc phả gọi là thời Hùng Uy Vương, triều đại Hùng Vương thứ sáu theo phả đồ.
Nhà Hạ Trung Hưng được thay thế bằng Bàn Vương trong tích Long Khuyển Bàn Hồ của người Dao. Nhóm tộc Miêu Dao là một trong những tộc người Bách Việt ở phương Nam đã làm nên nhà Thương trong lịch sử Trung Hoa. Trung tâm của giai đoạn này là vùng đất Kinh, tức là vùng Hồ Nam, phía Nam sông Dương Tử. Bàn Vương được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Huy Vương, tức là đời Hùng Vương thứ bảy theo phả đồ.
Một trong những vị Bàn Vương là vua Bàn Canh, đã thực hiện việc di dời dân chúng, tiến xa hơn về phía Nam xưa, vượt qua sông Trường Giang, lập nên nhà Thương thứ hai, gọi là nhà Ân. Các vua nhà Ân được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Duệ Vương, chỉ thời kỳ cuối của giai đoạn Lạc Thị theo cha xuống biển.

Vào thời Hùng Duệ Vương, trên miền Bắc Việt là đất Lạc cổ xưa, có các Lạc hầu, Lạc tướng làm chủ. Sử cũ còn ghi thời kỳ này xảy ra cuộc đụng độ giữa dòng Lạc họ Hùng và dòng Thục đến từ phía Tây. Sự tranh đấu giữa 2 nhánh lên núi – xuống biển, Hùng – Thục, Âu – Lạc này bắt đầu từ thời Lạc Long Quân dựng nước, kéo dài suốt giai đoạn Lạc Thị cho tới Hùng Duệ Vương. Các sự tích ở miền Bắc Việt ghi nhận là những vị Long hầu đất Lạc đã nhiều lần chống lại các cuộc tấn công của quân Thục. Kết quả cuối cùng là vua Hùng nhường ngôi cho Thục chủ, chấm dứt thời kỳ Lạc Thị theo cha khai phá miền biển, mở ra giai đoạn lịch sử mới khi 2 dòng Âu và Lạc tái hợp và sự lên ngôi của người con theo mẹ Âu Cơ ở Phong Châu là Hùng Quốc Vương. Qua bốn ngàn năm lịch sử từ cha Rồng xuất thế nơi Đào Động, 50 người con chia trị Ngũ phương, miền sông nước Động Đình đã vươn xa hơn ra biển. Thủy quốc Long Quân còn in đậm trong tín ngưỡng Tam tứ phủ, trong tục thờ thành hoàng ở hàng trăm, hàng ngàn ngôi làng ở Bắc Bộ, trong những bản thần tích, những bài sử thi dẫn đường cho linh hồn con cháu về với tổ tiên của người Kinh, Mường, người Tày, người Dao… Lịch sử cha ông không thể nào quên. Hỡi ôi, tiền nhân bất vong!
Động Đình Long Quân ký Thoi-dai-hung-vuong

Thứ Năm, 22 tháng 2, 2024

2 chuyện cần bàn thêm

 Bách Việt trùng cửu

nguồn https://hungvietsuquan.blogspot.com

Sau bài viết của tác giả Văn Nhân Nguyễn Quang Nhật “Sử Việt, 2 chuyện cần bàn“, xin góp bàn thêm về giai đoạn đặc biệt phức tạp nhưng cũng hết sức hào hùng này trong lịch sử nước Nam người Việt.

1. CHUYỆN SỐ 1:

Lý Nam Việt Đế là Triệu Vũ Đế, cũng là Cao Tổ Lưu Bang. Tuy nhiên, còn người làm vua Nam Việt tiếp theo Lưu Bang thì cần xem thêm. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, vị này:

– Ngay khi nhà Tần diệt vong đã tự xưng là Nam Việt Vũ Vương.
– Sau đó mấy năm được Lưu Bang cử Lục Giả mang phẫu phù đến sắc phong Vương chính thức.
– Khi Lữ Hậu mất thì xưng Đế, thuần phục Tây Âu và Mân Việt.

Xét theo truyền thuyết Việt, người được Lý Nam Đế trao lại quyền nước Nam, tự xưng Dạ Trạch Vương rồi xưng Hoàng đế phải là Triệu Quang Phục. Theo thần tích Hạ Mạo thì Quang Phục là dòng dõi Hùng Vương, cháu ngoại của Đông Chu Quân, được vua ban cho họ Lê, khởi nghĩa cùng Triệu Vũ Đế và được gả con gái là Triệu Hậu cho. Vì thế Quang Phục khi xưng Đế đã lấy tên triều đại của mình theo Triệu Cao Tổ Lưu Bang.

Đoạn văn tế độ Triệu Vũ Đế ở Đồng Sâm: 

Công tham lưỡng đại,

Uy nhiếp bách Man.

Thuỷ đế khai thất quận chi đồ, Hán hùng tịnh thế,

Mẫu nghi chính lục cung chi biểu, Chu hậu đồng ban. 

Người kế tục Lưu Bang – Lý Bôn ở Nam Việt là Triệu Quang Phục, xưng là Triệu Văn Đế. Đôi búa sắt lưu ở đền Đồng Xâm tương truyền là do nhà Hán, tức do Lưu Bang, đã trao cho Triệu Việt Vương. Phải chăng đây là khi Lưu Bang nhập Quan Trung nhà Tần, để lại binh quyền Nam Việt cho Triệu Việt Vương?

2. CHUYỆN SỐ 2:

Khu Liên là Triệu Quốc Đạt – Đô Dương, người đã nối tiếp cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng của bà Trưng – bà Triệu cuối thời Đông Hán. Thêm nữa, khi khảo sát các di tích và sự tích về Lý Nam Đế ở nước ta đã phát hiện có 2 vị vua đều được được gọi là Lý Nam Đế. Vị thứ nhất ở vùng Thái Bình, Long Hưng dựng nghiệp là Triệu Vũ Đế – Lưu Bang như đã nêu ở chuyện thứ 1. 

Vị thứ hai ở vùng Sơn Tây (quận Nhật Nam), từ nhỏ nuôi chí lớn ở trong chùa, khởi nghĩa lập ra nước Lâm Ấp. Khu Liên do đó là Lý Nam Đế thứ 2, vị vua đã “thác thủy” Lâm Ấp địa. Sau khi Khu Liên mất, đã giao lại quyền bính cho một người bên họ ngoại là Hữu tướng Phạm Tu, tức Sĩ Nhiếp. Phạm Tu là người có công bình định đất phương Nam – Lâm Ấp (miền Trung bộ), giao cho một người con là Phạm Hùng cai quản. Sĩ Nhiếp Phạm Tu duy trì chế độ tự trị kéo dài 40 năm đối với nhà Đông Hán rồi Đông Ngô.

Còn phần phía Tây Bắc Việt do người anh của Khu Liên là Đào Lang Vương Lý Thiên Bảo cầm quân. Lý Thiên Bảo mất, con là Lý Phật Tử lên thay. Dòng họ Lý ở vùng đất quận Nhật Nam xưa được sử Việt gọi là Nam Triệu (Nam Chiếu). Còn Hoa sử gọi là Tây Nam Man Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch và Sĩ Nhiếp chia đôi nước Lâm Ấp của Khu Liên thành 2 phần Đông Tây, lấy bãi Quân Thần ở Thượng Cát làm ranh giới. Đây cũng là ranh giới 2 quận Giao Chỉ và Nhật Nam từ thời Tây Hán.

Các di tích ở vùng Sơn Tây thờ Lý Nam Đế như ở Giang Xá (Hoài Đức) chính là nơi khởi nghĩa của Lý Khu Liên. Câu chuyện về 2 vị vua Lý Nam Đế này nay đã lẫn lộn vào nhau, nên trong sự tích mỗi nơi đều thấp thoáng chuyện của cả 2 vị ở 2 thời kỳ khác nhau.

Câu đối ở Giang Xá:

Thiên Đức hồng cơ long đỉnh Bắc
Vạn Xuân cung khuyết phượng thành Đông.
 

Thứ Hai, 29 tháng 1, 2024

Rồng trong tâm thức hướng biển của người Việt cổ

 

Truyền thuyết khởi nguồn Họ Hồng Bàng kể 50 người con theo cha Rồng Lạc Long Quân đi về phía Đông xuống biển là các Thủy thượng Linh thần. 50 người con theo mẹ Tiên Âu Cơ lên vùng miền núi phía Tây là các Sơn thần. Như thế rồng là hình tượng đã đi vào trong văn hóa Việt ngay từ buổi đầu dựng nước với tâm thức hướng ra khai phá miền biển Đông.
Nguồn : đăng lại từ https://hungvietsuquan.blogspot.com/2024/01/rong-trong-tam-thuc-huong-bien-cua.html
1. Ca dao xưa:

Mồng bốn cá đi ăn thề

Mồng tám cá về cá vượt Vũ Môn.


Truyền thuyết Việt về Rồng đầu tiên là trong điển tích cá vượt Vũ Môn hóa rồng. Đây là sự tích kể về thời vua Kinh Dương Vương khởi dựng nước Nam. Kinh Dương Vương cũng là Tản Viên Sơn Thánh, người đã chống lại nước lũ ngập ngang trời thời Đường Nghiêu. Vũ Môn nơi Tản Viên Kinh Dương Vương trị  thủy là dải Thác Bờ gập ghềnh hiểm trở trên dòng sông Đà. Hình ảnh cá hóa rồng còn lưu lại ở nhiều đền thờ Tản Viên Sơn Thánh quanh vùng Ngũ Lĩnh núi  Ba Vì. Cá vượt Vũ Môn là một lời thề, là tấm gương nghìn đời của bậc tiền nhân thời lập quốc, đã tìm tòi tri thức về thế giới quan và nhân sinh quan mà nỗ lực vượt qua thiên tai, xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân, đưa xã hội người Việt ở thủa hồng hoang phát triển lên một nấc thang mới.

Người đã kết duyên cùng với Kinh Dương Vương sau cuộc gặp gỡ bên bờ Động Đình là Thần Long Nữ. Tản Viên Kinh Dương Vương  đã cứu được con rắn, con của Long vương Động Đình, rồi đi xuống Thủy cung mà lấy được cuốn sách ước. Mẫu Thần Long đại diện cho tộc người sinh sống ở vùng sông biển ở phía Đông, xưa được gọi là hồ Động Đình. Câu chuyện Mẫu Thoải (Mẫu Thủy phủ) còn được kể trong truyền thuyết về thư sinh Liễu Nghị, đã xuống Thủy cung truyền thư báo tin mà cứu được Xích Lân Long Nữ. Liễu Nghị như thế là một cách kể khác của Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh. Mẫu Thoải và Liễu Nghị được thờ như các vị thủy thần có khả năng ngăn mưa chống lụt ở chùa Ông (chùa Sộp) và chùa Bà (chùa Dựa) tại Thanh Miện, Hải Dương.

2. Kinh Dương Vương lấy mẫu Thần Long sinh ra Lạc Long Quân nên Lạc Long Quân thừa hưởng vị trí quân chủ của cả dòng Lạc bên cha và dòng Long bên mẹ. Lạc Long Quân đứng đầu các tộc người vùng sông biển nên khi hóa sinh về biển được tôn là Vua cha Bát Hải Động Đình, là vị vua chủ của Thoải phủ trong tín ngưỡng Tứ phủ. Rồng đã trở thành biểu tượng vật tổ của người Việt vào thời khai phá miền Thủy phủ Động Đình.

Tín ngưỡng thờ những vị thủy thần Long Vương rất phổ biến ở vùng đồng bằng sông Hồng ven biển, trải dài qua Thanh Hóa, Nghệ An, vào tới tận Hà Tĩnh. Ở khu vực ven biển huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh có một loạt các di tích thờ Tam Lang Long Vương như Miếu Ao Thạch Trị, đình Đại Hải… Đặc biệt nhất là đình Thạch Lặc nằm ngay trên di chỉ khảo cổ tiền sử cồn sò, nơi đã phát hiện được di cốt người Việt cổ với niên đại 4000 – 5000 năm trước. Đây là bằng chứng rất rõ ràng rằng các vị Long Vương là những quân chủ vùng ven sông biển, lấy nghề đánh bắt thủy hải sản mà sinh sống từ thời kỳ dựng nước trên 4000 năm trước.

Hùng Vương Thánh Tổ Ngọc phả cho biết những người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển được gọi là các Thủy thượng Linh thần. Chữ Linh có phát âm khác là Lung, cũng là Long, chỉ rồng. Linh Lang tức là Long Vương. Vị thần hồ Tây Uy Linh Lang do đó chính là vua cha Lạc Long Quân của thời sơ sử. Hồ Dâm Đàm là đầm rồng của Thủy quốc Động Đình, nơi Long Quân cùng với những người anh em trấn trị tại đó. Sự tích này còn ghi trong Lĩnh Nam chích quái về việc Long Quân cùng Lục bộ Thủy phủ dâng nước diệt con cáo chín đuôi ở Hồ Tây. Long Quân còn là thần chính khí Long Đỗ, vị thành hoàng của kinh thành Thăng Long xưa.

3. Hình tượng rồng đã xuất hiện từ rất sớm trên những di vật khảo cổ đồ đồng thời Ân Thương (trên 3000 năm trước). Thường gặp nhất là hình rồng 1 chân, gọi là quỳ long, rất phổ biến trên các đồ đồng từ thời kỳ này. Truyền thuyết Long sinh cửu tử với 9 đứa con của rồng là 9 cách thể hiện hình tượng rồng trên các đồ dùng với những chức năng khác nhau. Ví dụ như hình mặt thú Thao thiết thường gặp trên các đỉnh đồng xưa. Hình Tiêu đồ với mặt rồng ngậm vòng, thường dùng trên các bình đồng làm quai cầm hay tay nắm cửa. Nhai tí là tên gọi cho hình rồng đúc trên chuôi các loại vũ khí như giáo, dao găm… Công phúc là loại rồng dẫn thủy, gặp trên các ấm đồng có vòi rót dài hình rồng… Rồng đã biến hóa vào mọi mặt của đời sống người Việt cổ.

Trong văn hóa tín ngưỡng, các vị Long Vương còn gặp ở một dạng thể hiện khác. Ở Nhật Tân có sự tích bà phi của vua Diệu Đế sinh ra một bọc, đem để ở bãi Nhật Chiệu, rồi nở thành 7 con rồng bay lên trời. 7 con rồng này là thần Uy Linh Lang và Đoài hồ thất giáp (7 giáp của hồ Tây). Tại bãi này người ta trồng 7 cây hoa gạo (mộc miên) để tưởng nhớ đến các vị thần rồng. Ngày sinh của Uy Linh Lang và những người anh em cùng bọc của mình là vào 10 tháng 2 Âm lịch. Đây cũng là lúc hoa gạo vào mùa nở đỏ rực ở bên bờ sông Hồng. Những cây hoa gạo nở hoa đỏ tháng 2 là hình ảnh rất sống, rất thực của Rồng bay lên trên đất Thăng Long.

Ở Long Hưng điện tại xã Xuân Quan, Văn Giang, Hưng Yên có sự tích vua Triệu Đà đi qua nơi đây, thấy rồng bay lên nên đã đặt tên là Thăng Long. Tên gọi Thăng Long của vùng Long Biên – Hà Nội như thế có từ thế kỷ 3 trước Công nguyên. Thăng Long là hình ảnh “Phi long tại thiên” của hào từ thứ năm trong quẻ Càn của Kinh Dịch. Đây là hào từ chỉ sự thăng hoa cao nhất của người quân tử. Rồng bay lên tức là trạng thái thành đạt, khi vua lên ngôi Hoàng đế, lập nên một triều đại.

Gắn với vua Triệu Vũ Đế còn có là di vật cổ là tượng một con Rồng đá lớn, cao bằng người, ở trên núi Châu Sơn (nay thuộc Quế Võ, Bắc Ninh). Con rồng đá này được tạo hình có mỏ chim, có cánh như thể hiện sự kết hợp giữa rồng và phượng. Con Rồng đá núi Châu Sơn là linh vật của ở đền thờ Triệu Vũ Đế có từ thời Hán. Nó là di vật chứng minh cho sự kiện Triệu Đà khởi nghĩa kháng Tần, lập căn cứ ở vùng núi này.

4. Ở một hướng phát triển khác, trong dòng tộc người Việt theo mẹ Âu Cơ lên núi, rồng được thể hiện khá nhiều trên các đồ đồng văn hóa Đông Sơn. Những hình rồng ở đây được gọi là Giao long. Hình Giao long thường gặp thành từng cặp ở trên các lưỡi rìu, lưỡi giáo, trống đồng, đồ trang sức… của văn hóa Đông Sơn. Ở đây Giao long được thể hiện như một loài thú có 4 chân, đuôi như có lông, trải dài hoặc cuộn, có mõm dài, có mào. Tiền thân của hình tượng Giao long có thể là loài cá sấu (hay thuồng luồng), vốn là loài bò sát lớn sinh sống phổ biến ở các vùng sông nước miền Bắc nước ta vào thời trước Công nguyên. Sự xuất hiện của hình tượng rồng Lạc (giao long) này cùng với hình chim Âu trên các đồ đồng Đông Sơn chỉ rõ sự hợp nhất hai dòng Âu – Lạc, lên núi xuống biển vào thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên.

Liên quan đến hình tượng Rồng lịch sử còn ghi vua Triệu Việt Vương khi ẩn trong đầm Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) đã được một vị thủy thần là Quý Minh Đại vương, cưỡi rồng vàng hạ xuống, tháo móng rồng trao cho để làm thành bảo bối mũ đâu mâu. Oai lực của đâu mâu móng rồng chỉ vào đâu là giặc ở đó tất tan. Những nơi thờ Triệu Việt Vương ở vùng đầm Dạ Trạch luôn thờ cùng với các vị thủy thần tại đây như Quý Minh Đại vương hay Linh Lang Đại vương. Những ngôi đình, ngôi đền cổ thờ các vị thần này được thể hiện bằng những bức chạm rồng thành hàng bầy, vô cùng sinh động. Phải chăng đó là trạng thái “Quần long vô thủ” như hào từ thứ 6 của quẻ Càn trong Kinh Dịch nói tới, chỉ sự thái bình thịnh vượng?

Hiện vật khảo cổ tiêu biểu thường gặp sau thời kỳ nước Âu Lạc là các gương đồng. Những chiếc gương thời Hán được chôn theo người chết với ý nghĩa dẫn đường cho vong linh về với tiên giới, về với tổ tiên. Trên các gương đồng thời Hán, rồng được thể hiện là Thanh Long, một trong bốn loài linh thú (tứ linh). Chữ viết trên gương đồng ghi: Rồng trái, hổ phải trừ đi điều xấu. Con rồng trên gương đồng như thế là biểu tượng của sự cát tường, may mắn. Cùng thời kỳ này còn hay gặp hình ảnh các vị chân nhân cưỡi rồng bay trên mây. Đây là thể hiện sự đắc đạo phi thăng thành Tiên. Hình tượng cùng chủ đề này gặp ở trên mảng chạm tại đình Tây Đằng (Ba Vì, Hà Nội), khắc họa những vị tiên có thân rồng. Chủ đề rồng thời kỳ đầu Công nguyên gắn liền với quan niệm tu tiên của Đạo giáo.

Từ khi Kinh Dương Vương trị thủy, vượt Vũ Môn hóa rồng, mẫu Thần Long và vua cha Lạc Long Quân dẫn con dân người Việt chinh phục miền sông nước ven biển Đông, hình tượng rồng đã đi vào tâm thức tín ngưỡng của người Việt, là biểu trưng cho nhiều mặt của đời sống như ăn, uống, làm nông nghiệp, thủy lợi, chiến đấu bảo vệ quê hương. Rồng bay lên trên đất Thăng Long là khi người Việt đạt đến chế độ phát triển tổ chức xã hội cao nhất, Triệu Vũ Hoàng Đế nhất thống sơn hà, hải nội. Những vị chân nhân đắc đạo cưỡi rồng phi thăng bất tử thành tiên. Con rồng biểu tượng vừa cho sự chinh phục miền sông nước biển Đông thời lập quốc, vừa là sự thăng hoa tinh thần của xã hội người Việt khi thiên hạ thống nhất một dải.


Bài viết đăng trên Tạp chí Năng lượng mới số Tết năm Giáp Thìn 2024.



Văn nhân góp thêm Vài chuyện chung quanh con rồng

Rồng là dịch tượng rất quan trong trong nền văn minh dựa trên nền tảng Dịch học .

Trong biểu hiện khác của Tứ Tượng Long Ly Quy Phụng . Long biểu hiện của phương Đông thường được nhắc đến đầu tiên như bình minh của 1 ngày .

Trong vốn từ Việt ngữ có 2 cặp từ kép mà chỉ thông qua Dịch học mới biết được ý nghĩa :

Chấn động và ̣định Đoạt

Trong đồ hình Hậu thiên Bát quái ; quẻ Chấn hay quẻ Thìn trấn phương Đông – Động

Quẻ Đoạt tức quẻ Đoài trấn bên Tây Định

Ngoài Tứ Tượng và Bát quái Thập nhị điạ chi cũng có chi Thìn tượng của con Rồng

Xét ra con Rồng bàng bạc mọi nơi trong Dịch học.

Rồng hay Long là sản phẩm của văn minh Việt hay Tàu ?

Dịch học Hùng Việt quả quyết con Rồng là 1 hình tượng của nền văn mih Việt , từ kép Chấn – động đã chỉ ra cả Rồng và Long đều xuất pháp từ Rung tức động của Việt ngữ :

rung > rùng > rồng

rung âm Việt cổ đọc là lung – long

Việt cả đấy có tàu tây gì đâu .

Do Long ̣̣đồng ăm với ‘lang’ là thủ lãnh trong văn minh Việt nên con rồng được dùng chỉ nhà vua , người Tàu không dùng từ lang để chỉ thủ lãnh .

Người phương Tây khi tiếp súc với văn minh phương Đông đã học lóm khái niệm thần Rồng của người Việt nên Tiếng Anh có từ dragon chỉ con rồng Việt

‘dra gông thiết rồng’ đã khẳng định đây là sản phẩm của văn minh Việt trăm phần trăm .

Thứ Tư, 3 tháng 1, 2024

Bảy quận núi sông nước Nam

 Bách Việt 18 – nguồn :Hùng Việt sử quán: Bảy quận núi sông nước Nam (hungvietsuquan.blogspot.com)

 Hậu Hán thư ghi: Năm Nguyên Đỉnh thứ 5 (112 TCN) đời Hán Vũ Đế bèn diệt Nam Việt chia đặt thành 9 quận, do Thứ sử Giao Chỉ lĩnh lấy, trong đó 2 quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ trên bãi ngoài biển. 9 quận chia ra từ nước Nam Việt cụ thể là nằm ở đâu?
Đến thời Sĩ Nhiếp thì Giao Châu chỉ còn 7 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Nhật Nam, Nam Hải, gọi là “thất quận sơn hà”, thường được nhắc đến trong các thần tích về nước Nam. Như thế rõ ràng 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ không thể nằm ở đảo Hải Nam, mà là vùng đất xa hơn về phía Bắc giáp biển.
Châu Nhai vốn là tên của đảo Đài Loan như được ghi trên tấm bia bài minh Mộ Chí tiến sĩ Thái Đình Lan của Lâm Hào đời nhà Thanh soạn: “Miền Chu Nhai hoang phục xa xôi,  đất Quỳnh Sơn tích học, khởi nghiệp.” Do đó quận Châu Nhai phải là vùng tỉnh Phúc Kiến ngày nay.
Đạm Nhĩ tương tự sẽ là vùng Chiết Giang, nơi nhà thơ Tô Đông Pha từng đi lưu đày và làm bài thơ Cư Đam Nhĩ. 2 quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ tương ứng là đất Mân Việt vào đầu thời Tây Hán. Do Mân Việt phục tùng nước Nam Việt nhà Triệu nên khi Hán Vũ Đế chia đất Nam Việt đã tính cả vùng đất Mân thành 9 quận.
Vị trí quận Nam Hải khả dĩ nhất là vùng Quảng Đông, không gây tranh cãi nhiều. Còn Hợp Phố là phía Nam Quảng Tây, nơi ngày nay vẫn còn địa danh huyện Hợp Phố. Uất Lâm hay Quế Lâm là phía Bắc Quảng Tây, nay còn thành phố Quế Lâm giáp với Hồ Nam. Quận Thương Ngô nằm gần với đất Mân Việt nên thuộc vùng Giang Tây ngày nay.
Vấn đề còn lại là 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Tây Hán nằm ở chỗ nào?
Quận Cửu Chân theo Truyện Nhâm Diên trong Hậu Hán thư thì giáp với Dạ Lang, mà Dạ Lang nằm ở Quý Châu. Theo Thái Bình hoàn vũ ký thì quận Cửu Chân Bắc giáp Ba Thục, Đông giáp Uất Lâm, Tây giáp Tường Kha, Nam giáp Nhật Nam. Ba Thục chính là đất Dạ Lang ở Quý Châu (không phải Xuyên Thục là Tứ Xuyên). Tường Kha là tên khác của Tượng quận, thuộc Vân Nam. Suy ra Cửu Chân nằm ở quãng phía Tây của Quảng Tây, giáp với Vân Nam.
Quận Nhật Nam là một quận mới xuất hiện khi Hán Vũ Đế chia Nam Việt thành 9 quận, vì trước đó thời nhà Triệu chỉ thấy nói đến cử người đến quản Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhật Nam lúc này không ở vùng miền Trung Việt vì nó được biết là giáp với quận Cửu Chân ở trên.
Đặc biệt bản thần tích ở đất Thái Bình về bà Vương Chiêu Quân thời Hán Nguyên Đế cho một thông tin hết sức lạ: cha của bà là Vương Thức, người trang Bát Đồn (ở Thái Thụy, Thái Bình) làm Thái thú quận Lâm Ấp ở Nam thổ. Có thể thấy Lâm Ấp đây chính là chỉ quận Nhật Nam thời Tây Hán. Vị trí quận này khi đó bao gồm vùng tỉnh Thái Bình.
Từ thông tin này có thể đi đến nhận định rằng Nhật Nam là phần phía Đông vịnh Bắc Bộ, có thể cả phần Bắc Trung Bộ Việt. Còn quận Giao Chỉ như thế sẽ là phần Tây Bắc. Sự phân chia này còn thấy sau đó khi Sĩ Nhiếp cai quản vùng phía Đông Nam, Mạnh Hoạch chiếm giữ vùng Tây Bắc. Ranh giới Đông Tây lúc này theo truyền thuyết là bãi Quân Thần ở Thượng Cát – Từ Liêm. Nói cách khác quận Giao Chỉ thời nhà Triệu tới thời Tây Hán đã được tách thành 2 phần Tây Bắc và Đông Nam, là Giao Chỉ và Nhật Nam. Lý do sự chia tách này là bởi vùng phía Tây là địa bàn của hậu quân nhà Triệu Nam Việt chống lại nhà Tây Hán, được biết trong sử Việt với tên gọi Tây Vu Vương, hoặc sau đó là khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Phong Châu phía Tây.

Bảy quận núi sông nước Nam Dsc02192a-3
Bài vị Thái thú Vương Thức ở đền thờ bà Chiêu Quân tại thôn Diêm Tỉnh, Thụy Dũng, Thái Thụy, Thái Bình.

Việc xác định quận Giao Chỉ và Nhật Nam vào thời Tây Hán là 2 vùng Tây Bắc và Đông Nam nước ta là một nhận định mới, liên quan đến nhiều sự kiện lịch sử trong thời gian tiếp theo. Ví dụ như sự kiện Khu Liên, con một công tào địa phương đã nổi dậy ở Lâm Ấp. Rõ ràng Lâm Ấp lúc này gồm cả miền Bắc Việt, chứ không không chỉ là ở miền Trung.
Tiếp nữa là việc Sĩ Nhiếp có bố là Sĩ Tứ, vốn là Thái thú quận Nhật Nam thời Hán Hoàn Đế. Với việc xác định Nhật Nam là vùng phía Đông Nam miền Bắc nước ta thì việc Sĩ Nhiếp nối tiếp vị trí Thái thú Nhật Nam của cha là rất hợp lý. Nếu quận Nhật Nam lúc này mà ở tận Nam Trung Bộ thì làm sao Sĩ Nhiếp lại trở thành Thái thú ở miền Bắc?
Rồi còn những chuyện như thời Lý Nam Đế giặc Lâm Ấp vào xâm chiếm. Tả tướng Triệu Quang Phục được cử đi dẹp Lâm Ấp… Rõ ràng Lâm Ấp lúc này ở ngay cạnh khu vực miền Bắc nước ta chứ không phải ở tận miền Nam Trung Bộ, muốn đánh ra Bắc còn phải qua Bình Trị Thiên rồi Thanh Nghệ.
Bảy quận núi sông nước Nam Bay-quana
 Vị trí các quận phía Nam thời Tây Hán. 
Chữ trắng là địa danh ngày nay. Chữ vàng là tên các quận thời Tây Hán. Chữ xanh nước biển là tên nước.

ĐIỀU CHỈNH NHẬN ĐỊNH VỀ QUẬN NHẬT NAM

Trong bài trước đã nhận định rằng Nhật Nam là quận được tách ra từ vùng Bắc Bộ vào thời Tây Hán, nằm ở phía Đông Nam, đối diện với quận Giao Chỉ ở Tây Bắc. Tuy nhiên nay suy xét kỹ hơn thì cần đổi ngược lại: Giao Chỉ là hướng Đông Bắc, Nhật Nam là Tây Nam.

Nhật Nam hay Lâm Ấp tương ứng với khu vực rút về của hậu quân nhà Triệu Nam Việt, tức là vùng chiếm lĩnh của Tây Vu Vương. Nhà Hiếu (Tây Hán) đánh được Tây Vu Vương ở phía Tây, nên lấy đất đó lập thành quận Nhật Nam. Đây là lý do hình thành nên quận mới này trên đất Giao Chỉ cũ.

Cũng vùng đất Nhật Nam – Lâm Ấp này là nơi nổ ra khởi nghĩa của Khu Liên thời Đông Hán, dẫn đến hình thành nước Nam Triệu như được kể đến trong Truyện Nam Chiếu. Khu Liên là Triệu Ông Lý trong chuyện này, tương ứng với Lý Nam Đế thứ 2 hay Triệu Quốc Đạt.

May be an image of map and text

Thứ Tư, 6 tháng 12, 2023

Bằng chứng khảo cổ hữu hình xác nhận Trung Quốc có 5.000 năm lịch sử

 NGUỒN :Đăng lại từ báo điện tử Lao động .VN

 "Di tích Lương Chử là bằng chứng cụ thể về lịch sử văn minh 5.000 năm của Trung Quốc, là kho báu của nền văn minh thế giới", Tân Hoa Xã dẫn thư của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gửi tới Diễn đàn Lương Chử tổ chức tại Hàng Châu gần đây.

Di chỉ khảo cổ Lương Chử 5.300 năm tuổi, ở ngoại ô Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, có niên đại sớm hơn 1.000 năm so với triều đại nhà Thương - vốn tồn tại từ năm 1500 trước Công nguyên.

Di chỉ khảo cổ Lương Chử cũng là di tích đầu tiên xuất hiện trong sử liệu thành văn.

Từ lâu, có ý kiến cho rằng, nền văn minh của Trung Quốc bắt đầu từ vùng sông Hoàng Hà. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ đang phát hiện ra những bằng chứng cho thấy những câu chuyện phức tạp hơn.

Ví dụ, di chỉ Tam Tinh Đôi ở Tứ Xuyên, phía tây nam đất nước, đã được phát hiện có những cổ vật bằng đồng, bằng vàng cỡ lớn, tinh xảo. Những tàn tích này được cho là thuộc về Vương quốc Thục bí ẩn cách đây 4.500 năm. Trong khi đó, thành Lương Chử còn lâu đời và lớn hơn cả di chỉ Tam Tinh Đôi.

Di chỉ khảo cổ Lương Chử được phát hiện năm 1936. Tuy nhiên, chỉ tới những năm gần đây, quy mô và sự phức tạp của đô thị cổ và cư dân ở đây mới được tiết lộ.

Thành phố Lương Chử ở đồng bằng sông Dương Tử đã tồn tại gần 1.000 năm và là một trong những nền văn hóa thời kỳ đồ đá mới tiên tiến nhất về vật chất và công nghệ trên thế giới.

Hệ thống quản lý nước phức tạp của Lương Chử được khai quật năm 2015, là bằng chứng về nền văn minh đô thị sơ khai, với lúa gạo là trung tâm cho nền tảng kinh tế của thành phố. Đây cũng là bằng chứng lâu đời nhất về các công trình thủy lợi lớn ở Trung Quốc.

 Trong diễn biến khác, ngày 29.11.2023, Cục Di sản Văn hóa Quốc gia Trung Quốc đã công bố những khám phá khảo cổ mới tại di chỉ Lương Chử và hệ thống thủy lợi của thành phố.

Những phát hiện này cung cấp hiểu biết sơ bộ về 3 giai đoạn phát triển của Lương Chử, bắt đầu từ các khu định cư rải rác đến xây dựng hệ thống thủy lợi và cuối cùng là xây dựng thành phố cổ Lương Chử.

Từ năm 2020, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã khai quật các địa điểm ở phía nam thành cổ Lương Chử, bao gồm Beicun, Fenghuangshan và Nanwangmiao. Những địa điểm này có niên đại khoảng 5.000 đến 5.500 năm trước, tất cả đều trước thời điểm xây dựng thành phố cổ Lương Chử. Công nhân xây dựng thành phố cổ Lương Chử có thể đã sống tại những địa điểm này.

Tại di chỉ Phượng Hoàng Sơn, các nhà khảo cổ Trung Quốc tìm thấy 30 mộ cổ và 47 hố tro. Đáng chú ý, các nhà nghiên cứu đã phát hiện một mộ cổ có nhiều cổ vật tùy táng phong phú, bao gồm cả ngọc bích, tại di chỉ Beicun. Mộ cổ này được cho là thuộc về một phụ nữ có địa vị xã hội tương đối cao.

Trước đây, các nhà nghiên cứu trước đây từng tìm thấy hệ thống trữ nước quy mô lớn lâu đời nhất ở Trung Quốc tại phía tây bắc thành cổ Lương Chử.

Trong cuộc khai quật gần đây quanh di chỉ Lương Chử, các nhà nghiên cứu phát hiện gần 20 con đập cổ. Trong số đó, có 7 con đập có thể có niên đại khoảng 5.000 năm trước và là một phần của hệ thống thủy lợi địa phương.

Fang Xiangming - người đứng đầu Viện di tích văn hóa và khảo cổ học tỉnh Chiết Giang - cho biết, những phát hiện này cũng giúp cho thấy tầm quan trọng của văn hóa Lương Chử với nguồn gốc của nền văn minh thời đại đồ đá mới ở Trung Quốc.

Ý kiến của Văn Nhân

Thưa ông Tập : ông không biết  hay cố tình không biết ...tảng lờ ‘chính’ sử Trung quốc ; cái nôi của Trung quốc  ở bắc  Hoàng hà cơ mà , mãi tới thời vua Bàn Canh nhà Thương khoảng 1500 - 1400 năm TCN  Trung quốc mới vượt Hà xuống khai sáng văn minh cho dân miền Nam man dã như vậy :văn minh Lương chữ 5000 TCN đâu có dính dáng gì tới Trung quốc của nhà ông ?.

Lương chữ là nền văn minh của người Trung Hoa con cháu Tam hoàng Ngũ đế thứ thiệt ở phương Nam chẳng chút gì liên quan đến rợ Ngũ Hồ phương Bắc tổ tiên ‘lịch sử’ của người Trung quốc ngày nay.

Bao năm nay cả thiên hạ mơ mơ hồ hồ trong cái mớ bòng bong ‘lịch sử Trung hoa’ lộng giả thành chân đẻ ra từ  công trình văn hoá vĩ đại  Tứ khố toàn thư 4 cái kho hàng gian hàng giả của Càn Long nước Mãn thanh ,4 cái kho sách này đã phát huy hiệu quả tổng hợp với Khang Hy tự điển của ông nội Càn long diệt tộc Trung hoa , sau tứ khố toàn thư và Khang Hy từ điển không còn người Trung hoa nữa , phút chốc hết thảy  biến thành người Trung quốc con cháu của rợ Ngũ Hồ  gốc gác ở  bắc Hoàng hà

Dưới ánh sáng khoa học ngày nay Thiên hạ đang dần tỉnh  ra ông cũng nên tỉnh ra thôi đừng khư khư ôm cái luận thuyết vớ vẩn cho  cả thiên hạ là hậu duệ người châu Phi riêng Trung quốc là giống khác con cháu của người vượn Bắc kinh , tỉnh ra thôi đừng nói văn minh Lương chữ Chiết giang là văn minh Trung quốc 5000 năm làm trò cười cho  thiên hạ nữa .

Thứ Hai, 18 tháng 9, 2023

Võ miếu triều Nguyễn Việt Nam

 Đăng lại từ :VÕ MIẾU DƯỚI TRIỀU NGUYỄN - Mộc Bản Triều Nguyễn - Mộc Bản Triều Nguyễn (mocban.vn)

Vua Minh Mạng từng cho rằng: Nước ta mở khoa thi kén lấy kẻ sĩ, đã thành quy chế hẳn hoi, duy có khoa thi võ chưa từng đặt ra. Kể ra, kẻ sĩ xuất thân từ văn chương, chưa có công với nước, một khi tên chiếm khôi khoa, bảng vàng bia đá. Đó thực là cách triều đình dùng để khuyến khích nhiều người. Quan võ có người xông pha tên đạn, huyết chiến ở chốn sa trường, ra sức vì nhà nước, làm cho mạnh mẽ biên giới, công của họ đáng ghi vào sử sách. Chính vì thế mà năm Minh Mạng thứ 16 (1835), vua cho dựng Võ miếu để cho những người theo việc cung đao biết hướng trông mong, bắt chước.

Năm 1834, vua Minh Mạng có bàn với bộ Lễ về việc dựng Võ miếu, mở khoa thi võ, lập bia công thần, để cho quan võ đều biết cảm kích phấn khởi. Như thế thì hai đường văn võ đều cùng cử hành, đủ để làm phép cho đời sau. Và sang năm thì vua cho thực hiện. Trước đây, bộ Lễ kiến nghị cho rằng đường lối trị  nước, văn võ đều trọng. Xét trong điển lệ quốc triều, trong Kinh và ngoài các tỉnh đều có làm nhà Văn miếu, xuân thu tế lễ, thực vì cho rằng đạo của thánh nhân bao hàm tất cả: có văn sự tất phải có võ bị, đành rằng đủ để khích lệ phong hoá và đào tạo nhân tài, song thiết tưởng: lễ nhạc nhà học chỉ riêng trọng văn giáo, còn võ giáo chưa được tiêu biểu.

Năm Ất Mùi, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), bắt đầu dựng Võ miếu ở ngoài kinh thành, thuộc ấp Nội Súng, huyện Hương Trà. Quy mô của Võ miếu gồm: 1 cái chính đường, 1 cái tiền tế, hợp làm 1 toà. Nhà chính đường 3 gian, 2 chái; nhà tiền tế 5 gian. Hai toà nhà thờ phụ (tòng tự) ở hai bên tả, hữu đều 5 gian. Bốn bề chung quanh xây tường gạch, mặt trước xây một nghi môn, hai bên tả hữu đều có 1 cửa tò vò.



Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ quyển 159 mặt khắc 31 ghi chép về việc dựng Võ miếu

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Những người được thờ trong Võ miếu không chỉ là võ tướng của nước Nam ta mà có cả võ tướng hùng dũng các đời của Trung Quốc. Gian chính giữa thờ Chu thượng phụ Khương Thái Công; giải vũ bên đông thờ Tề tướng quốc Quản Trọng, Ngô Thượng tướng Tôn Vũ Tử, Hán đại tướng Hàn Tín, Đường vệ công Lý Tĩnh, Đường thái uý Lý Thạnh, Minh đại tướng quân Từ Đạt; giải vũ bên tây thờ Tề đại tư mã Điền Nhương Thư, Hán Lưu hầu Trương Lương, Hán thừa tướng Gia Cát Lượng, Đường trung thư lệnh Quách Tử Nghi, Tống thiếu bảo Nhạc Phi.

Nếu gian chính giữa, giải vũ đông, tây thờ võ tướng Trung Quốc thì nhà tả, nhà hữu thờ võ tướng nước Nam ta. Nhà tả vũ thờ Trần thái sư thượng quốc công Trần Quốc Tuấn, bản triều khai quốc công thần Thái bảo Anh quốc công Nguyễn Hữu Tiến, bản triều Tá vận tôn thần Tôn Nhân phủ tả tôn chính Lạng Giang quận công Tôn Thất Hội. Nhà hữu vũ thờ Lê tư mã công Lê Khôi, bản triều khai quốc công thần Thái phó Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật, bản triều tá vận công thần Thái bảo Đoan Hùng quận công Nguyễn Văn Trương.

Danh tướng nào thờ trong Võ miếu cũng được khảo cứu rất kỹ, xem xét về tài năng và đức độ có xứng đáng hay không. Đình thần bàn rằng: Tôn Võ tử, Điền Nhương Thư, Quản Trọng, Lý Tĩnh đều có làm Binh thư và có võ công. Trương Lương, Hàn Tín, Gia Cát Lượng, Quách Tử Nghi, Lý Thạnh, cũng đều tinh thông thao lược, sự nghiệp rõ ràng. Chín người ấy liệt thờ ở giải vũ đông và giải vũ tây trong nhà chính đường, đều xưng danh tướng các triều đại; ghi rõ họ, tên chức, hàm. Còn như Phạm Lãi giúp Câu Tiễn, tuy có công phục quốc, song xét ra, cũng là may vì vua nước Ngô ngu tối, chứ Phạm Lãi chẳng có sự tính toán kỳ diệu gì của con nhà binh. Nhạc Nghị tuy báo thù được nước yên, nhưng rồi bị gièm pha phải bỏ nước, cuối cùng chẳng hoàn thành được sự nghiệp. Lý Tích ở nhà Đường, cũng hăng hái đánh giặc ở hồi mới khai quốc mà thôi, đến sau theo lập Võ hậu, một lời nói mất hết đạo làm tôi, thực không đáng đếm xỉa. Còn Bạch Khởi giết người đã hàng, thực không phải là đạo đức của nhà võ. Ngô Khởi giết vợ để cầu làm tướng, nhân phẩm lại càng hèn hạ bẩn thỉu; từ đời Tống đến nay, đã tước bỏ tên thờ đi rồi. Vậy đối với Phạm Lãi, Nhạc Nghị, Lý Tích, Bạch Khởi và Ngô Khởi 5 người, xin không nên liệt vào hàng được thờ. Rồi khảo kỹ thêm: Tống Nhạc Phi là người tinh trung, có mưu lược, lập được nhiều kỳ công, vốn làm cho người Kim xao xuyến, sợ hãi. Nếu chẳng vâng theo chiếu chỉ, rút quân về, thì có thể tính ngày lấy lại được Trung Nguyên. Võ công ấy, thực không nên bưng bít vì nửa chừng dở dang. Lưu Cơ đời Minh có mưu lạ, kế hay, nổi tiếng như là Tử Phòng và Gia Cát: công lao giúp nước bao trùm cả một đời. Vương Thủ Nhân nghĩ ra mưu lạ, đánh vỡ giặc mạnh, bắt Thần Hào, dẹp yên Điền Châu, bình 8 trại. Sử khen Thủ Nhân là có công với xã tắc. Ba người này thực là đại danh tướng đời Tống, đời Minh. Còn Nhạc Phi từ trước đến nay, không được dự vào Võ miếu, có lẽ vì nhà Nguyên diệt nhà Tống rồi, không chọn lấy bầy tôi nhà Tống, mà Lưu Cơ và Vương Thủ Nhân thì lại ở sau khi Võ miếu đã bãi bỏ. Nay chính nên nêu ra để bổ sung vào chỗ điển lễ còn thiếu. Vậy xin nên đặt bài vị ba người này mà thờ ở hai bên giải vũ, đặt ngang hàng với các danh tướng như Tôn Võ tử, Nhương Thư, cộng 12 người. Vả, Vương Thủ Nhân đã được thờ ở Văn miếu, song là vì người văn võ toàn tài, nên lại xin thờ vào Võ miếu nữa.

Vua Minh Mạng ban dụ rằng: “Điều cốt yếu trị nước là cả văn lẫn võ, không thể riêng bỏ một bên nào. Việc đặt ra Võ miếu, là lẽ nên làm. Lời bàn của Bộ phần nhiều đã ổn thoả cả, trong ấy nêu ra những danh tướng được thờ vào Võ miếu như Lưu Cơ nhà Minh tuy có mưu lạ, kế hiểm, song chỉ là bí mật tham dự ở nơi màn tướng, chứ không có võ công chiến đấu rõ ràng. Vương Thủ Nhân là một danh nho đời Minh, tuy có công phá giặc, nhưng đã được thờ phụ ở Văn miếu rồi thì chẳng nên lại biểu dương về võ công nữa. Vậy những người ấy không nên liệt vào Võ miếu. Có Từ Đạt nhà Minh là khai quốc nguyên huân giữ toàn vẹn được từ trước đến sau, đáng nên được thờ phụ, cộng với các danh tướng các triều đại, từ Tôn Võ tử đến Nhạc Phi tất cả 11 người đã được lựa, liệt vào thờ ở giải vũ đông, tây nhà Võ miếu, đều là xứng đáng”.

Đó là khảo cứu danh tướng của Trung Quốc, còn việc khảo cứu danh tướng của nước ta lại cẩn trọng hơn. Vua Minh Mạng ban dụ: Đến như nước An Nam ta, từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê đời nào cũng có người phò tá đời ấy, chẳng thiếu gì người tài giỏi binh cơ tướng lược. Huống chi bản triều từ khai quốc đến trung hưng, trong khoảng ấy những bầy tôi bày mưu giúp sức, công liệt rực rỡ, không kém người xưa, đáng nên biểu dương để khuyến khích nhân tài. Bộ thần các ngươi nên điều tra rõ ràng kỹ lưỡng, người nào công trạng sự nghiệp đáng nêu ra để cho thờ phụ thì tâu lên.

Sau đó, bộ thần tâu: Tra trong Sử ký các triều đại An Nam và Thực lục bản triều đã chép về sự trạng các công thần khai quốc và trung hưng: các đời trước ở An Nam thì như Đinh Tiên Hoàng có dũng lược hơn đời, bình được 12 sứ quân, xưng là Vạn Thắng vương. Công đánh dẹp đều tự mình làm nên, chẳng thấy bầy tôi có võ công gì. Lê Đại Hành do sự nhường ngôi được nước, cũng không có bề tôi võ thần có công to. Duy có Lý Thường Kiệt nhà Lý, có việc đánh châu Khâm, châu Liêm, bẻ gẫy quân Tống: đó là võ công bậc nhất xưa nay; lại hai lần đánh tan quân Chiêm Thành, giữ yên được biên giới, công lao và danh tiếng hơn cả một đời. Trần Quốc Tuấn nhà Trần: chém Toa Đô, bắt Ô Mã, dựng nhiều công lạ. Lại làm sách Binh gia diệu lý, Bát quái cửu cung càng thâm thuý về môn học thao lược. Trần Nhật Duật liệu thế giặc, đặt kỳ binh, bắt tướng Hồ ở cửa Hàm Tử. Trong cuộc đánh bại quân Nguyên ở đời Trùng Hưng (1285-1292), công nghiệp của Nhật Duật riêng trội hơn cả. Đến khi nhà Lê mới khai sáng, Đinh Liệt đánh bại quân Minh, giết được Liễu Thăng. Cái công bình Ngô đứng vào hàng đầu; sau lại dẹp Cầm Man, đánh Chiêm Thành: võ công rất rõ rệt. Lê Khôi: trước thì nhiều trận đánh tan quân Minh, sau trấn thủ Nghệ An, hai lần dẹp tên giặc Chiêm. Lê Khôi vào bờ cõi địch mà tù trưởng giặc Man xuống ngựa sụp lạy. Danh vọng và uy thế của Lê Khôi làm cho phương xa phải kinh sợ. Khoảng Lê Trung Hưng thì Hoàng Đình Ái trước theo Triệu tổ hoàng đế ta, khởi nghĩa ở Thanh Hoa: cung kiếm theo đòi, đánh hàng hơn trăm trận, sau diệt giặc Mạc, dẹp Hải Dương, lập nhiều công lao.

Bản triều, khi mới khai quốc, Đào Duy Từ bày mưu ở nơi màn trướng, sắp xếp nhiều kế hoạch, tuy chưa từng thân đi đánh trận, nhưng điều khiển quân cơ, có đủ mưu lược làm tướng, cũng ngang với Trương Lương. Lại làm được binh thư đến nay hãy còn lưu hành ở đời. Tôn Thất Thuần mới 20 tuổi, thế mà chính mình cầm quân, dẹp yên biên giới, có công với xã tắc. Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật dùng kỳ binh, đánh được giặc, nhiều lần đánh tan quân họ Trịnh. Những người đó đều có tiếng là danh tướng một đời.

Đến khi Thế tổ Cao hoàng đế ta đánh dẹp, trong khoảng ấy, những công thần giúp rập, thực khó chỉ kể một hai người được, tức như Chu Văn Tiếp và Võ Tánh là người trung dũng, có mưu lược, có công lao, đích thực là đáng ghi chép nhưng đều gặp nguy biến, chết theo nạn nước, e chưa nên biểu dương là võ liệt được. Tìm lấy những người có quân công rõ rệt như: Tôn Thất Hội theo đòi cương ngựa, trải khắp chiến trường, từ khi lấy lại được Gia Định trở về sau, luôn nắm dụng binh, nhiều lần lập được công trạng rõ rệt. Nguyễn Văn Trương thường theo đi đánh dẹp có công bình Tây rất nhiều. Nguyễn Hoàng Đức lập nhiều chiến công được người ta gọi là hổ tướng.

Bấy nay, những công thần trong họ thân hoặc có công lao của bản triều có 25 người được thờ phụ ở Thái miếu và Thế miếu; những công thần toàn quốc có 16 người được thờ phụ ở miếu Lịch đại đế vương, cộng tất cả là 41 người. Duy có 13 người trên đây, võ công trội hơn những người cùng hàng. Vậy nghĩ nên chọn lấy thờ phụ vào hai bên giải vũ ở Võ miếu. Duy có Lý Thường Kiệt đã tự thiến nhưng làm nên võ công rực rỡ, thì tưởng cũng không nên hiềm vì điều đó. Vậy nghĩ cũng nên thờ cả.

Vua lại dụ rằng: “Những người được thờ ở Võ miếu tất phải là bậc có công liệt rõ ràng, giữ trọn trước sau, mới đủ để nêu rõ ý nghĩa thờ tự và làm gương lâu dài cho sau này. Tựu trung Lý Thường Kiệt nhà Lý tuy ưu việt về phần võ lược, nhưng xuất thân từ hoạn quan. Còn như Trần Nhật Duật, Đinh Liệt và Hoàng Đình Ái cũng chỉ là những tướng đánh thành, phá trận, trội hơn mọi người một thời đó thôi, rút lại vẫn chưa được mười phần rực rỡ. Duy có Trần Quốc Tuấn nhà Trần: tinh thông binh pháp, hai lần đánh tan quân Nguyên; Lê Khôi đời nhà Lê: cũng nhiều lần đánh bại quân Minh, hai lần dẹp yên Chiêm Thành. Thao lược và oai vọng của hai người đó vang dội khắp nơi, mọi người đều nghe biết. Khi bản triều mới khai quốc, Đào Duy Từ bàn mưu ở nơi màn trướng; Tôn Thất Thuần điều khiển quân cơ: công thì to thật, nhưng bảo là võ liệt cao tột thì chưa đáng; Duy có Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến ra quân kỳ, khống chế địch, nhiều lần đánh phá được quân giặc, đáng là danh tướng một đời. Đến thời trung hưng, Nguyễn Hoàng Đức tuy có tiếng là hổ tướng, nhưng so sánh lựa lấy hạng trội hơn cả mọi người thì chưa bằng Tôn Thất Hội theo đòi bên ngựa, từng trải chiến trường, công trạng to tát rõ ràng; Nguyễn Văn Trương biết hướng về nơi sáng, theo con đường chính, theo đi đánh dẹp, đi tới đâu có công đến đó; sự nghiệp của họ rực rỡ hơn cả. Nay chuẩn cho: trong danh tướng các triều đại thì lựa lấy Trần Quốc Tuấn và Lê Khôi; trong danh tướng tiên triều ta thì lựa lấy Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến, Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Trương tất cả 6 người, liệt vào thờ phụ ở giải vũ tả hữu nhà Võ miếu.

Thời gian và lễ phẩm tế ở Võ miếu cũng được định. Năm Minh Mạng năm thứ 16 (1835), vua định kỳ tế võ miếu vào ngày Kỷ, trung tuần tháng 2 và thượng tuần tháng 8 hằng năm, đến năm Minh Mạng thứ 21 thì lại đổi vào ngày Tỵ. Năm Tự Đức thứ 2 (1849) thì chuẩn cho lấy tháng 2 trọng xuân, ngày Kỷ tế Võ miếu. Lễ phẩm thì dùng 1 trâu, 1 dê, 2 lợn và 5 mâm xôi.

Năm 1836, vua Minh Mạng sai bàn đặt dựng bia võ công ở Võ miếu. Hai năm sau thì dựng bia võ công để ghi công trạng của những người có công đánh dẹp giặc. Trước vua nghĩ các quan vâng mệnh chuyên đi đánh dẹp, nhiều người có công lao, muốn dựng bia ghi công để mãi đời sau, sai bộ Binh bàn. Đến nay quan ở bộ tìm xét năm gần đây, bầy tôi kính theo việc võ như dẹp yên giặc Xiêm, uy dậy biên thuỳ, cùng là đánh dẹp giặc cướp ở Nam Kỳ, Bắc Kỳ, và thắng trận ở Ba Lan, Đại Đồng, phàm người theo việc đánh bắt, được phong tước và con được tập ấm là 20 người, nghĩ nên ghi vào bia, để nêu chiến công. Trương Minh Giảng làm trên nhất, thứ đến Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm, thứ nữa đến Phạm Văn Điển, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức, Phan Văn Thuý, Trần Văn Trí, Mai Công Ngôn, Tôn Thất Bật. Đều kê khai rõ quan hàm, họ tên sự trạng, khắc vào bia đá, để ở trước sân Võ miếu, bên tả: Trương Minh Giảng, Phạm Hữu Tâm, Tạ Quang Cự, Phan Văn Thuý, Mai Công Ngôn làm 1 bia đá; bên hữu: Nguyễn Xuân, Phạm Văn Điển, Lê Văn Đức, Trần Văn Trí, Tôn Thất Bật làm 1 bia.


 Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ quyển 197 mặt khắc 30 ghi chép về việc dựng bia võ công

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV

Ngoài việc chú trọng thờ tự, tế lễ ở Võ miếu, nhà Nguyễn còn quan tâm đến không gian xung quanh của Võ miếu. Năm 1838, vua Minh Mạng cho trồng cây tùng và cây phong ở ngoài tường và đường đi mặt trước Võ miếu. Vua lại cho mộ lấy 20 người dân ngoại tịch ở gần miếu, sung làm thủ hộ để lo cho miếu.

Triều Nguyễn chú trọng dựng Võ miếu để mở mang biểu dương võ giáo, khuyến khích võ tướng vâng mệnh chịu chuyên trách trong việc đánh dẹp, phần nhiều vì nước, bày mưu hay, chống kẻ thù, dẹp yên ngoài biên, thật có công lao rõ rệt. Chính vì vậy, Võ miếu không chỉ là nơi thờ tự các anh hùng trên chiến trận mà còn là nơi để người kế tiếp trông mong lập công, là nơi để vua tôi triều Nguyễn ghi nhận và tưởng nhớ công lao của võ quan./.

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ sơ H22/160, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

2. Hồ sơ H22/198, Mộc bản triều Nguyễn, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV.

3. Bản dịch sách Đại Nam thực lục, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Nxb Giáo dục (2004).

Nhật Phương

Văn Nhân góp ý :

Không biết vua quan nhà nguyễn nhìn nhận Việt sử ra sao mà

* - Võ miếu gian chính thờ  Chu thượng phụ Khương Thái Công:

Khương Tử Nha (chữ Hán: 姜子牙, 1156 TCN - 1017 TCN), tính Khương (), thị Lữ (), tên Thượng (), tự Tử Nha (子牙), lại được gọi là Thượng Phụ (尚父), là khai quốc công thần nhà Chu thế kỷ 12 trước Công nguyên và là quân chủ khai lập nước Tề tồn tại từ thời Tây Chu đến thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Cách gọi Khương Tử Nha, ghép tính và danh, trở nên phổ biến thông qua tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa. Do là vị quân chủ đầu tiên của nước Tề, nên thông thường còn được gọi là Tề Thái công (齊太公), còn gọi là Khương Thái công (姜太公), Thái công Vọng (太公望) hay Lữ Vọng (呂望).

* - Văn miếu gian chính thờ Chu công và Khổng tử .

Chu công hay Châu công cùng với Khương Tử Nha  là  khai quốc công thần nhà Chu ;

ngoài ra Chu công và  Khổng tử là 2 trong tứ thánh tác thành Kinh Dịch , nền tảng của văn minh Trung hoa cũng là văn minh phương Đông mà người Việt ai cũng rõ .

còn hơn thế nữa nếu các bạn đến với :

Miếu Lịch Đợi,,,

do nhà Nguyễn xây đựng ở kinh thành Huế , e rằng khi đọc  bài viết rồi  khó tránh khỏi  'choáng váng' 
Nhìn nhận như thế  chẳng khác nào vua quan nhà Nguyễn bảo  ngọn nguồn nước Việt ta là nhà Châu trong Tam đại Trung hoa  .???

Mời bạn đọc Sử thuyết Hùng Việt để tỏ tường .