Hiển thị các bài đăng có nhãn V hóa V minh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn V hóa V minh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 8 tháng 2, 2024

Năm Thìn điểm lại chuyện về quẻ Rồng trong Dịch học Hùng Việt

 Rồng là dịch tượng rất quan trong trong nền văn minh dựa trên nền tảng Dịch học .

Trong biểu hiện khác của Tứ Tượng Long Ly Quy Phụng . Long biểu hiện của phương Đông thường được nhắc đến đầu tiên như bình minh của 1 ngày .
Trong vốn từ Việt ngữ có 2 cặp từ kép mà chỉ thông qua Dịch học mới biết được ý nghĩa :
Chấn động và ̣định Đoạt


Trong đồ hình Hậu thiên Bát quái ; quẻ Chấn hay quẻ Thìn trấn phương Đông – Động
Quẻ Đoạt tức quẻ Đoài trấn bên Tây Định
Rồng trong tâm thức hướng biển của người Việt cổ Hau-thien-bat-quai
Ngoài Tứ Tượng và Bát quái Thập nhị điạ chi cũng có chi Thìn tượng của con Rồng
Xét ra con Rồng bàng bạc mọi nơi trong Dịch học.
Rồng hay Long là sản phẩm của văn minh Việt hay Tàu ?
Dịch học Hùng Việt quả quyết con Rồng là 1 hình tượng của nền văn mih Việt , từ kép Chấn – động đã chỉ ra cả Rồng và Long đều xuất pháp từ Rung tức động của Việt ngữ :
rung > rùng > rồng
rung âm Việt cổ đọc là lung – long
Việt cả đấy có tàu tây gì đâu .
Do Long ̣̣đồng ăm với ‘lang’ là thủ lãnh trong văn minh Việt nên con rồng được dùng chỉ nhà vua , người Tàu không dùng từ lang để chỉ thủ lãnh .
Người phương Tây khi tiếp súc với văn minh phương Đông đã học lóm khái niệm thần Rồng của người Việt nên Tiếng Anh có từ dragon chỉ con rồng Việt
‘dra gông thiết rồng’ đã khẳng định đây là sản phẩm của văn minh Việt trăm phần trăm .

Trong 64 quẻ Trùng quẻ quan trọng nhất là Kiền được dành riêng cho Rồng

Con người là sự hợp nhất của thần và vật…, thần là hồn phải nhập vào xác là vật thì mới tồn tại được trong thế giới vật chất; con Rồng tượng trưng cho thần tính trong con người, thìn là biến âm của thần là biểu tượng của thần tính trong con người mà thôi , 6 hào là 6 bước tiến trên đường trưởng thành của con người.

1. Sơ: tiềm long vật dụng

Rồng ẩn không hoạt động.

Thời sơ khai của loài người, tức giai đoạn tục ngữ gọi là: thời ăn hang ở lỗ, lang thang kiếm sống bằng săn bắt và hái lượm, đây là thời mà con người vừa trải qua sự chuyển biến về chất để vượt trên tất cả các loài sinh vật trở thành người nguyên thủy. Vì vậy thân xác đã có con rồng ẩn ở trong, tức đã mang trong mình thần tính nhưng thần tính chưa phát lộ hay chưa hoạt động… Sở dĩ vậy vì lúc này còn là lúc …” cái khó nó bó cái khôn” hay là lúc chưa đủ … thực nên chưa thể vực được đạo.

Ở một phần trên ta đã nói đến 3 mặt của sự tự chủ: làm chủ chính mình, làm chủ giới tự nhiên và làm chủ xã hội, 3 mặt này liên quan và đồng chuyển nên khi còn hái lượm tức tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên thì sự tự chủ cũng không thể nào có được, việc này Dịch học đã mượn hình tượng con Rồng ẩn để chỉ ý nghĩa.

Ý tứ của Hào từ rất đơn giản cũng hết sức thiết thực: kẻ bụng đang đói thì đừng nói đến tự chủ, điều này đúng với từng cá nhân và cả quốc gia. Dù có là Rồng, muốn bay cũng phải hội đủ điều kiện vật chất mới bay lên được chứ không thể bay trong thinh không chẳng cần cánh và bệ đỡ là không khí.

2. Hào nhị:

Hào từ: Hiện long tại điền lợi kiến đại nhân; câu này được Dịch là: Rồng hiện trên mặt Ruộng, có lợi gặp người lớn.

Nếu Dịch một cách trần truồng như thế thì chẳng phải là “Dịch lý” , trong Dịch học họ Hùng hào nhị có ý như sau:

Qua thời Hái lượm hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên con người vượt qua chính mình bằng cuộc cách mạng nông nghiệp, con người không còn phó mặc cho trời đất nữa mà trở thành nhân ngang hàng với trời đất trong thể tam tài thiên – địa – nhân.

Năng lượng đến từ vũ trụ kết hợp với vật liệu trong đất được bàn tay con người chăm sóc để trở thành của ăn nuôi dưỡng con người. Khi không còn phải hoàn thành lệ thuộc vào tự nhiên chính là lúc thần tính bắt đầu vẫy vùng. Hào từ vạch nhị gọi là hiện long tại điền; còn lợi kiến đại nhân hiểu gọn là:, khiến con người trở thành ‘vĩ đại’ ; khi thần tính xuất hiện con người trở thành “đại nhân” tức đúng nghĩa “người” không còn là “người vượn”

Cách mạng lần thứ nhất nhờ biết chế tạo sử dụng công cụ đặc biệt là phát minh ra cách dùng lửa con người đã thoát xác từ vượn người trở thành người vượn, cuộc cách mạng thứ 2, cách mạng nông nghiệp con người trở nên to lớn phi thường ngang hàng với trời đất để người vượn chuyển hẳn thành “người” hay “đại nhân.”

3. Hào tam Quân tử chung nhật Kiền Kiền, tinh Dịch nhược lệ vô cữu

Trưởng nhân tích cực hoạt động cả ngày luôn cẩn thận thì không lỗi.

Nông nghiệp mới chỉ là thành tựu khoa học kỹ thuật bước đầu, con người phải tiếp tục tiến xa hơn nữa, tích cực nghiên cứu để tìm ra các quy luật chi phối mọi sự vận động trong giới tự nhiên và xã hội, khoa học là điều kiện “vật chất” để trưởng thành trong tâm linh , chữ trí giúp chữ thần toả sáng , Thấu suốt tự nhiên là bệ phóng của ý thức đạo đức .

ban tối Dịch chỉ dẫn ta phải nghỉ ngơi, ban sáng phải tích cực làm việc; tích cực hành động là thể hiện rõ rệt tính “người” tức biểu hiện của tài nhân cùng với thiên địa tạo nên bộ mặt cuộc đời.

Hào tam nói rõ: một mặt tích cực hoạt động nhưng mặt khác phải luôn cẩn thận đề phòng sự “chủ quan”. Ta luôn có sự vận động trong thế giới thực thể và sự phản ánh của thế giới đó vào não bộ con người, tức thế giới “thông tin”, 2 thế giới có hoàn toàn trùng khớp hay không là điều ta phải cẩn thận; phải luôn kiểm nghiệm luôn so sánh tránh việc xa rời thực tế rơi vào sự chủ quan duy lý .

Tóm tắt hào tam thánh nhân chỉ dạy: tích cực làm việc, cẩn thận thì không lỗi.

Làm việc để càng ngày càng hiểu rõ thiên nhiên, càng gặt hái được nhiều hơn những lợi ích do thiên nhiên ban tặng, đời sống mỗi ngày mỗi nâng cao và niềm hạnh phúc mỗi ngày mỗi dâng trào mạnh mẽ đấy chính là sự bất tận của dòng đời mà thánh nhân muốn tặng cho nhân thế Khi các ngài khổ công nghiên cứu khai sáng Dịch học.

4 Hào Tứ: Hoặc dược tại uyên vô cữu

Nghĩa đen là: Nhảy qua vực thẳm không lỗi.

Nghĩa bóng: chỉ sự duy lý tức chỉ thuần lý luận không có cơ sở thực tế . Tưởng đã ở trên cao lắm khi thấy phía dưới sâu ngút ngàn… Thực sự đâu có cao mà là ảo giác vì mặt đất thụt xuống sâu thẳm. Sai lầm như thế tại sao lại vô cữu, không lỗi ?

Thưa vì Thánh nhân cho đó là điều tất yếu sẽ xảy ra trong quá trình phát triển. Nếu đã là một bước ắt có thì không mắc lỗi , dù biết vậy thánh nhân vẫn phải làm nhiệm vụ của mình cảnh báo con người ….phải cẩn thận, cẩn thận…để có thể giảm nhẹ mức độ sai lầm , bớt đi hậu qủa nặng nề …

Tất yếu sẽ có một giai đoạn gọi là thời duy lý, đấy là sai lầm duy nhất có tầm vóc “vũ trụ” và dĩ nhiên hậu quả chính con người phải gánh chịu là khôn lường. Thời mà con người quằn quoại trong đau khổ tột cùng. Thế giới thông tin không phản ánh đúng thế giới thực tạo thành vinh quang ảo nhưng đau khổ lại rất thực, thực là thời đại cười ra nước mắt, đúng lý luận thì phải là thiên đàng nhưng thực tế thì ngược lại…như đã diễn ra ở đất Campuchia thời Khơme đỏ , Con người trở nên mê sảng vì phải tiêu hoá cả một cuốn tự điển ngược… Tớ tớ, chủ chủ không còn phân biệt được nữa , … đi đến tột cùng con người không còn biết thế nào là hạnh phúc, thế nào là đau khổ? Sống không phải là sống cho chính mình , tạo lập hạnh phúc cho chính mình mà lại sống vì lý tưởng… gì gì đó … Của lãnh tụ vĩ đại … cuối cùng là sự hủy diệt như Hitle và chủ nghĩa Quốc xã ở Đức thời thế chiến thứ II .

5 Hào Ngũ: Phi long tại thiên lợi Kiến đại nhân

Hình ảnh con Rồng bay trên trời biểu thị thần tính con người đã phát huy cực đại, con người đã là con người tự chủ dựa trên một trình độ khoa học kỹ thuật rất cao, con người thong dong tự tại như con Rồng bay trên trời sự ràng buộc của vật chất đã nhẹ như sợi lông tơ.

Nếu như ở Hào nhị hiện long tại điền, biểu lộ chủ yếu ở phần trí tuệ, đến hào ngũ thì thần tính chủ yếu biểu lộ ở phần bản lĩnh tự chủ, cũng vẫn lợi kiến đại nhân nhưng ở hào 5 khác hào 2, một đàng là trí tuệ một đàng là đạo đức, giúp thành người lớn nhưng đến hào 5 là con người trưởng thành toàn diện làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ chính mình, tức một trưởng nhân thực sự, là trung tâm của vũ trụ như “Hành Cam” (Dịch của Trung Hoa là hành Thổ) để viết “giá sắc” tức gieo gặt cũng là nơi xuất phát và qui về của cả chuỗi phản ứng “xã hội – tự nhiên”

Biết dùng quy luật “tòng cách” (Thạch viết tòng cách) để làm chủ diễn trình tự nhiên, biết luật “khúc trực” để điều khiển các diễn trình xã hội (Mộc viết khúc trực).

Tự nhiên vẫn ràng buộc nhưng không hạn chế con người. Xã hội vẫn biến chuyển theo quy luật nhưng lại do con người “điều hoà ” tức phần “quyết” vẫn thuộc thẩm quyền của con người.

Nhìn từ góc cạnh triết lý thì hào 5 là giai đoạn tột cùng con người đã trở thành trưởng nhân tức tự chủ dựa trên một nền khoa học và kỹ thuật cực kỳ cao.

Phi long tại thiên là hình ảnh vật chất thực khi con người cưỡi “phi thuyền” du hành vũ trụ… Nói như vậy để ta nhìn nhận thời đại hiện nay nhân loại đã đạt đến phần đầu của sự tột cùng văn minh vật chất nhưng cũng là lúc phải chịu sự căng kéo ghê gớm, do độ lệch quá lớn giữa văn minh vật chất và văn minh tinh thần, giữa nơi này và nơi khác trên thế giới; Ở vài nơi tinh thần con người vẫn còn ở thời hoang sơ… Thần phục các mãnh lực… vô hình, sống và chết theo lời truyền bảo của đấng này, hay đấng kia dù đấng đó đã “qua đời” có đến ngàn năm . Tâm và trí không đi đôi với nhau xuất phát từ sự tham lam và ích kỷ đã khiến bộ mặt thế giới trở nên méo mó dễ sợ, điều mà cả loài người đạt được là càng văn minh tiến bộ, càng tiến gần đến cái … chết chắc chắn, phải chăng là thượng đế đã lập trình sẵn một sự tự hủy…? Coi như là một bước tất yếu để đổi mới địa cầu… Loài người này mất đi để 5, 7 chục vạn hay triệu năm sau có một loài người khác xuất hiện? Điều ghê gớm đó rất có thể sẽ đến nếu con người không phản tỉnh theo lời dạy của Dịch học ở hào thượng của quẻ Kiền và quẻ Khôn.

6 Hào thượng

Kháng long, hữu hối. Rồng lên quá cao, có hối hận

Đây là sự thoát tục, không còn liên hệ đến nhân tình thế thái. Hình ảnh thực tế là một mình lên đỉnh núi tu tiên, tiêu giao tháng ngày với cánh hạc và giọt sương mai tìm sự thuần tịnh trong tâm hồn không kể chi đến xác thân… đấy chính là sự tu hành, xuất thế, nó không thể là hình ảnh tiêu biểu cho đời sống con người, đó chỉ là những trường hợp cá biệt riêng lẻ, có hối là ở chỗ này trưởng nhân mà bịt mắt bưng tai sống chết mặc bay, riêng ta tìm sự thanh thoát chỉ cho riêng mình, thanh cao thì có thanh cao thực đấy nhưng tu tiên dứt khoát không thể là con đường của người Quân tử, con người là một sinh vật xã hội tự nhiên từ khi sinh ra đã là vậy nên hạnh phúc thực chỉ đến giữa những con người, còn riêng mình ta với ta chỉ là cảm giác sung sướng mãn nguyện nhất thời không thể trường cửu, nên dịch học nói Hữu hối là vậy.

Kháng long mà xuất thế thì như thế, còn kháng long mà nhập thế thì thật là khủng khiếp, một khi thần quyền nhập chung với thế quyền thì cả xã hội được điều hành theo luật… tu viện, muốn hình dung ra tình cảnh xã hội lúc này thì phải lùi về thời Trung cổ ở phương Tây, tới thăm và hỏi chuyện nhà khoa học Gallilé, hỏi về các toà án dị giáo… còn dễ thực hiện hơn thì đến thăm Afganistan hỏi về sự cai trị của Taliban… Trong mọi sự áp bức thì áp bức về tư tưởng là ghê gớm nhất, không thể gọi là con người nếu không được quyền suy nghĩ độc lập, đến việc cầu kinh để giao cảm với thượng đế cũng được bảo trợ bằng roi da- xích sắt thì …. thượng đế cũng phải ngán ngẩm lắc đầu .

7 Hào dụng cữu: Kiến Quần Long Vô Thủ Cát

Nghĩa đen câu trên là: thấy bầy Rồng không đầu tốt.

Còn nghĩa dịch học của nó? Con người cứ mỗi ngày mỗi tiến lên, đến một ngưỡng nào đó xã hội chỉ toàn triết gia và nhà khoa học…nói khác mọi người đều đã thành ‘quân tử’ ; lúc đấy thì làm gì còn nhà lãnh đạo, xã hội thực sự là xã hội tự do và tự giác… điều hành “việc chung” lúc này không chừng chỉ là một máy tính điện tử siêu siêu tốc mà thôi.

Đấy là xã hội công dân tự quản, không cần ai “cầm lái” nữa một xã hội mà tất cả các thành viên đều là đại nhân thì còn cần gì lãnh đạo, nên hào dụng cửu nói: Kiến Quần long Vô Thủ Cát.

Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2021

Việc phải làm

 Người Việt chẳng ai còn lạ gì với từ Trống Đồng nhưng chắc ít người biết thực ra không phải …trống đồng mà là cối đồng , nguyên thủy của cối đồng là chày và cối gỗ dùng dã gạo của cư dân nông nghiệp , chày – cối âm Đường Việt là Chử – Cửu , Cửu biến âm ra cồ ; Việt ngữ sau sai lầm cổ – cối biến ra cái trống .

Mặt trống đồng 4 góc là 4 con cóc đúc nổi

Trống vàng lễ khí .

Tại sao lại là Cóc ?, Dịch học Hùng Việt chỉ ra : trong tiếng Việt tương tự cặp từ biến ăm :Cái – Gái , trên mặt trống đồng tượng Cóc cũng là Góc chỉ 4 góc của hình Vuông ẩn trên mặt trống tròn .

4 góc hình vuông cũng là 4 giao điểm của hình Vuông và Tròn hay Âm và Dương, Trời và Đất .
Đây là biểu hiện rất rõ ràng của đạo Sinh Sinh chi vị Dịch , Dịch chính là Sinh , âm Dương Giao sinh ra vạn hữu ,vạn vật .
Kiến giải này thấy rõ hơn trên mặt thạp đồng Đào Thịnh :

Thay vì tượng Cóc đánh dấu 4 góc hình vuông ẩn trên nắp tròn , thạp đồng đào Thịnh nói rõ hơn về đạo sinh sinh bằng tượng ̣đúc nổi 4 cặp nam nữ đang giao hợp .

Cũng biểu hiện đạo lí sinh sinh chi vị Dịch ; Trên mặt trống đồng loại của nhà Tần (theo Hùng Việt sử quán) là 4 tượng cóc lớn cõng cóc nhỏ , có người cho là cóc mẹ cõng cóc con nhưng theo thiển ý thì đấy là tượng cóc Cái và cóc Đực đang giao phối .

Đạo lí 4 giao điểm Tròn – Vuông Âm – Dương thật giản đơn nhưng vô cùng quan trọng với lịch sử và lịch dử văn minh Việt vì chúng xác định sự liên hệ giữa đồ đồng Việt và Dích học . hay nói khác đi là lời khẳng định chủ nhân trống đồng cũng chính là chủ nhân của Dịch học mà trống đồng là vặt phẩm văn hóa phi Tàu , rõ hơn đấy là sàn phẩm do tiền nhân người Việt sinh trú ở vùng Tăy Nam Trung Hoa và Việt Nam chế tạo , suy ra như thế thì Dịch học không thể nào là của người Tàu được . Theo sử Trung quốc thì Quê hương của họ mãi lưu vực Hoàng hà và ở  thời điểm đúc những cái trống đồng đầu tiên 1000 năm trước công nguyên thì họ chưa bước tới vùng Tây - Nam Trung hoa  .

Có thể nói 4 cái tượng Cóc trên mặt trống đồng chính là dấu ấn khẳng định chủ quyền mà tiền nhân người Việt đóng trên trên Bộ Kinh Dịch nền tảng của văn minh phương Đông .

Hệ quả vô cùng lớn ….một khi Kinh Dịch là sản phẩm của trí tuệ Việt thì đương nhiên Kinh Thư Thi Lễ Nhạc và kinh Xuân Thu cũng của người Việt , đương nhiên toàn bộ những ứng dụng Dịch học vào đời sống … Nho Y Lí Số v.v. đều là thành tựu của văn minh Việt .
Dịch học là thành tựu trí tuệ Việt thì tứ thánh đã tạo ra Dịch học là Phục Hy Văn vương Châu công và Không̉ tử dĩ nhiên là người Việt .
Kinh Thư là của dòng giống Việt thì những thông tin từ thời Nghiêu – Thuấn – Vũ phu thổ cho tới nhà Tần chép trong kinh Thư không thể nằm ngoài lịch sử Việt .
Sử thuyết Hùng Việt và Dịch học Hùng Việt đang làm những việc phải làm .

Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2020

KInh Quy.

(do người viết mắt đã kém nên trong bài có thể có nhiều lỗi chính tả mong bạn đọc thông cảm).
Thuật dị kí của Nhậm Phưởng (thời Nam Bắc triều) viết:
Thời Đào Đường, nước Việt Thường dâng rùa thần nghìn tuổi, rộng hơn ba thước. Trên lưng có hoa văn, đều là chữ khoa đẩu, ghi lịch rùa từ thủa mới mở mang đến nay.
Thời Đào Đường là thời của truyền thuyết thực hư chưa rõ nhưng từ thời Thương Ân thì việc dùng yếm rùa khắc chữ là có thật , loại chữ này được gọi là chữ Giáp cốt

Phải chăng Từ truyền thuyết cổ xưa và truyền thống khắc chữ trực tiếp lên mai rùa mà sau người Việt chuyển hóa thành hình tượng văn hóa Rùa đội bia đá phổ biến ̉ nơi đền miếu ? .
Tứ linh Long Ly Quy Phụng trong nền văn minh Thiên hạ Quy – Rùa là ‘linh’ duy nhất có thực bên cạnh 3 thần thú do con người tưởng tượng ra ,
phải chăng chính vì Văn nó mang trên lưng mà Rùa hay đầy đủ là Kinh quy đã từ con vật tầm thường biến thành thần linh .
Tứ Linh ngày nay trong chiều hướng mất liên lạc với văn hóa gốc đã có nhiều sai lầm .
Long Ly Quy Phụng nói đầy đủ theo dân gian Việt là Thanh Long Bạch Hổ Hồng Hạc và Kinh Quy , ở đây kinh là kênh lạch .
Người Tàu có 4 linh là Thanh long Bạch hổ Chu tước và Huyền vũ trong đó thanh bạch chu huyền là các màu xanh trắng đỏ đen .
Thanh long thường hiểu là Rồng xanh , Bạch hổ là Hổ trắng , Chu tước là chim sẻ đỏ đặc biệt huyền là màu đen nhưng thế gian không hề có con vật nào gọi là con vũ nên các nhà văn hóa Tàu đẻ ra Huyền vũ là con ‘rắn cộng rùa’đen hết sức quái dị .
Hiểu như thế là sai , trên đời này làm gì có con rồng màu xanh con chim sẻ màu đỏ ?
Các màu sử dụng thực ra là Ngũ sắc của Dịch học mỗi màu tượng trưng cho 1 phương , màu Xanh tượng trưng cho phương Đông ; Thanh long nghĩa chính xác là rồng ở phương Đông tương tự ; phía Tây màu Trắng .Bạch hổ là con hổ ở phía Tây ,hồng là màu đỏ ; Hồng hạc là chim Hạc ở phía nóng Xích đạo đặc biệt người Việt không dùng màu Đen mà dùng từ Kinh tức kênh lạch để chỉ hướng bắc ngày nay tức hướng Nam theo Dịch học xưa , Kinh quy tức rùa sông (sông nước là Dịch tượng chỉ hướng Nam xưa bắc nay) . nhiều tư liệu đã sai lầm hóa Kinh quy ra Kim quy …con rùa bằng vàng ; điều này có thể xác thực được khi thần Kim quy hiện lên với An dương vương đã xưng là ‘Thanh giang sứ gỉa ‘.

Trong nhiều đền thờ ở Việt nam hiện có 1 hình ảnh rất là sai , ở trên đã nói với mặt phẳng nằm ngang xét theo trục Bắc Nam thì Hồng hạc là linh thú hướng nóng và Kinh quy là thần hướng ngược lại còn trong mặt phẳng thẳng đứng thì Hồng hạc ở trên trời Kinh quy ở dưới đất , muốn tạo nên hình ảnh tượng trưng cho Âm Dương , trời đất nơi chốn linh thiêng người ta tạc tượng cặp đôi Hồng Hạc đứng trên lưng Kinh quy , do không còn hiểu trọn ý nghĩa Quy – Phụng lưỡng linh đồng đẳng đã biến Kinh quy thành ra cái bệ đỡ cho tượng Hồng hạc đứng lên trên khỏi đổ , Hồng hạc qúa to so với Kinh Quy dưới thấp qúa nhỏ khiến hình tượng cặp đôi này chẳng còn ý nghĩa gì nữa cả .

Tương tự 12 con Giáp , tứ linh thực ra là 4 chữ của hệ thống văn tự Kinh Dịch gọi là Điểu Thú văn , 4 chữ ‘điểu thú’ thực ra là 4 từ là tên gọi 4 con vật có gốc Việt ngữ , các từ ‘điểu thú’ này mang tính chất của 4 phương trời theo quan niệm Dịch học .

* Phương Đông : động
Việt ngữ hay dùng từ kép ‘rung - động’ nửa Nôm nửa Nho , rung là động , động cũng là rung , rung  âm Việt cổ là lung , lung chính là long - con rồng , khác nhau chỉ là phương âm  tương tự như tiếng Bắc tiếng Trung ngày nay . Lung - Long dân gian thường chỉ định rõ hơn là Thanh long .
* Ngược với tính ‘động’ có thay đổi , sự vật có phát sinh phát triển của phương Đông , tính của phương Tây là tịnh hay định chỉ sự không thay đổi , Việt ngữ  gọi là ‘lì’, hoặc cũng có thể là do Dịch học quan niệm phương Đông chủ Tình phương Tây chủ Lí , lì hay lý  biến âm ra ly - lửa ,lửa Đường ngữ là hoả , hoả biến âm ra hổ , chính vì lẽ này con hổ trở thành  Ly linh hay như dân gian thường gọi là Bạch hổ  .
* Trong chu trình Âm Dương tiêu trưởng hướng Nam ngày nay xưa Dịch học gọi là Bắc , bắc tức bức nóng , theo định luật vật lí tự nhiên nóng khiến dãn nở , sự trương nở lớn ra  tiếng Việt gọi là ‘phồng’, phồng biến âm là phùng -phừng - phụng tất cà đều dùng diễn tả sự trương nở , sưng to lên . do âm phồng - phụng người xưa đã dùng chim phụng hoàng hay phượng hoàng làm chữ để biểu diễn .
Phụng hoàng chỉ là loài chim tưởng tượng , người Việt thực tế hơn dùng hình ảnh Hồng hạc làm chữ điểu thú để tượng trưng do âm Hồng vừa nghĩa là lớn chỉ sự trương nở phồng to vừa nghĩa là màu Đỏ , màu của của hướng Xích đạo  nóng - bức .
* Trong chu trình Âm Dương tiêu trưởng tức nóng - lạnh đắp đổi thì  sức nóng cao nhất ở điểm cực Nam (xưa là chính Bắc - bức) tức điểm gần Xích đạo nhất , nếu theo ngày là lúc giữa trưa sau đó giảm dần , đến điễm cực Bắc nay (xưa là Nam) hay nửa Đêm thì sức nóng tiêu hết , đây trở thành điễm cực lạnh và  chính điểm này  sức nóng cũng bắt đầu đi lên khởi đầu chu trình mới . Sự đảo chiều naỳ tiếng Việt là ‘Quay’ ,Đường âm ̣hơi khác đi  là Quy . chữ Điểu Thú con Quy - Rùa thực ra có gốc ở từ quay tiếng Việt chỉ nơi nóng - lạnh đảo chiều .

Tứ linh là phần sâu thẳm của cội rễ văn minh Trung hoa , Quy – Rùa con vật tầm thường nhưng do mang trên mình chữ viết của con người tức bản thân trở thành quyển sách chở tinh hoa văn hóa nên đã thăng hoa thành 1 vị thần linh ngang hành với các thần thú khác .
Mai Rùa tải chữ không chỉ biết đến từ thời Đào Đường Thần thọai mà thiên Vũ cống phần Vũ phu thổ trong kinh Thư sau cũng chép vùng Cửu giang có cống vật là loài rùa lớn …phải chăng Cửu giang và Trường giang chỉ là một ?

Đặc biệt ghi nhận : loài rùa lớn đủ để có thể khắc Giáp Cốt văn ghi nhận ở thời Đào Đường và Đại Vũ nêu trên chỉ sống ở Trường giang không hề có ở vùng Hoàng hà quê hương gốc tổ của người Tàu .
Biết nghĩ sao đây ?.

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2020

Văn minh Việt : bản địa hay du nhập.

Có bạn đọc hỏi : văn minh Việt nam là văn minh bản địa hay du nhập ?.
Câu hỏỉ khiến phải suy nghĩ nhiều : Du nhập thì sao và bản địa thì sao .
Từ thuở hồng hoang xuất phát ở châu Phi tới khoảng 3000 TCN con người vẫn đang trong qúa trình di cư dù nay tốc độ đã chậm hẳn lại , loài người đi theo nhiều hướng , đến nhiều nơi khác nhau hình thành các cộng đồng người trên khắp mặt địa cầu .
Càng ngày quy mô 1 cộng đồng văn hóa cành lớn hơn , việc đi hay ở , đi trước hay đi sau có thể không bao gồm toàn bộ cộng đồng người cùng tập tính văn hóa nữa mà chia tách thành nhiều thành phần nhỏ , do việc kẻ ở người đi nên đã để lại cùng dấu ấn văn hóa trên những vùng miền có khi rất xa nhau , thậm chí không còn cùng trong biên giới 1 quốc gia .
Việt nam cũng không ngoại lệ Theo chiều hướng này chỉ có thể gọi là văn hóa văn minh dân tộc Việt từ khi vua Hùng hợp nhất nhiều thị tộc kiến lập nước của Hùng tộc , cổ sử Thiên hạ gọi là Hữu Hùng quốc , cổ sử Việt viết trên cái nền Hà thư – Lạc đồ của Dịch học gọi là bộ 10 – 5 có lãnh thổ là miền ‘Ngũ lĩnh’ . thực ra Ngũ lĩnh theo Dịch học chỉ nghĩa là vùng đất chính Giữa Thiên hạ , dân gian gọi là ‘chỗ giữa’ sau chữ nghĩa hóa thành ra đất ‘Giao chi’̉ . bộ 10 – 5 là bộ hay quốc gia đứng đầu các nước trong Thiên hạ , tư liệu cổ cũng có lúc gọi vua Hùng là ‘bộ chủ’, bộ 10-5 chính xác nhất hiểu theo ngôn ngữ ngày nay là Trung quốc , nhiều nhà nghiên cứu hiểu sai bộ 10 – 5 thành 15 bộ và cho rằng nước Việt ta hợp thành từ 15 bộ hoặc rõ ràng hơn là 15 bộ …lạc .



Nước họ Hùng hợp thành tử nhiều thị tộc và những cộng đồng người này không phải di cư đến Giao chỉ cùng 1 lúc . có cộng đồng có mặt ở đây đã 50- 60 ngàn năm trước khi họ Hùng lặp quốc nhưng cũng có thị tộc vừa mới đến định cư sinh sống thậm chí nhiều cộng đồng di cư đến sau khi đã lập quốc .
Nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy sự kết liên các thị tộc do Hùng quốc quân đứng đầu vươn mình trở thành Hữu Hùng quốc của đế Hoàng hay Hùng Vũ vương trùng đúng vào thời kì gọi là Hoàng hóa cư dân tức có sự biến đổi vô cùng lớn về mặt nhân chủng ở Giao chỉ và Hoa Nam nói chung , có thể coi đây là cuộc lột xác hình thành bộ mặt cư dân là chủ nhân đất nước cho đến ngày nay , điều này đã chỉ ra nền văn hóa văn minh dân tộc Hùng là nền văn hóa văn minh được tổng hợp hoà trộn từ nhiều nguồn , càng đi sâu về qúa khứ càng thấy nhiều nét tương đồng với những nền văn hóa văn minh ở nhiều vùng miền khác nhau trên qủa đất đôi khí có khoảng cách địa lí rất xa .

Duy nhấn mạnh 1 điều : từ khi lập quốc tổng hợp nhiều nguồn văn hóa văn minh thành văn hóa văn minh dân tộc Hùng thì qua 5 – sáu ngàn năm nền văn hóa ấy vẫn được duy trì và phát triển liên tục trên miền đất tổ ban đầu .
Tóm lại : theo suy nghĩ của mình , bản thân người viết chẳng thể kết luận nền văn hóa văn minh Việt nam là bản địa hay du nhập và đồng thời nghĩ … điều này chẳng quan trọng gì trong tâm thức người Việt Hiện  các nhà nghiên cứu còn đang tranh luận về nguồn gốc của trống đồng . nhưng theo tôi dựa theo biên giới ngày nay thì dù có nguồn gốc từ Việt Nam (bản địa) hay Quảng tây hoặc Vân Nam (du nhập) cũng không làm thay đổi sự yêu qúy và trân trọng của người Việt đối với vật phẩm văn hóa mà tiền nhân đã kì công chế tạo .

Thứ Ba, 3 tháng 3, 2020

Ngũ Đức của người họ Hùng

Nho Giáo quan niệm Quân tử là thành phần gương mẫu trong xã hội , là những người ghánh trọng trách dẫn dắt cả cộng đồng ̣xây dựng cuộc sống tốt đẹp .
Để được gọi là Quân tử con người phải rèn luyện tiến đến tột cùng 5 đức tính : Nhân Ngĩa Lễ Trí Tín .


Đồ hình 5 Đức xếp theo Ngũ Hành hiện nay
Không hiểu trước đây người ta căn cứ vào đâu để sắp xếp Ngũ đức theo Ngũ Hành như trên .
Dịch học Hùng Việt nhận ra điều không hợp lí trong đồ hình đã hoán đổi vị trí hành Thổ và hành Kim .
Về ý nghĩa giữ nguyên tính chất hành Thổ tượng trưng cho đất – đá .
Đá rấn ở vào vị trí phía Tây không đổi , tĩnh định chết cứng là bên của lí lẽ ngược với phía đông thay đổi chủ về tình cảm , cây cối .
Kim về vật chất là chất Khí vô hình , cụ thể với thế giới đang sống Kim chính là Không khí mà con người đang hít thở , kinh Dịch mô tả là ‘nhất tịch nhất hạp’ . chính sự biến đổi của nó đã tham gia vào việc tạo ra 4 Hành còn lại ,
Dịch học Hùng Việt đặt Kim tượng trưng cho Khí ở vị trí chính giữa đồ hình vì ngũ Hành còn có những ứng dụng khác :
– Kim là Vàng vật chất ở vị trí chính giữa của đồ hình Ngũ Kim ,
– Kim biến âm ra Cam là màu vàng sâṃ , màu trung tâm của đồ hình Ngũ Sắc
– Kim – Cam nghĩa là Ngọt ở Trung tâm của đồ hình Ngũ Vị .
– Kim nghĩa là ngay lúc này tức trung điểm nối qúa khứ và Tương lai trên trục thời gian .
Ngoài việc hoán đổi vị trí hành Kim và Thổ Dịch học Hùng Việt cũng sắp xếp lại đồ hình Ngũ Đức .
Con người là thực thể sống động thường xuyên phải xử lí các tương quan bên trong chính mình và tương quan với môi trường tự nhiên và xã hội bên ngoài :


Đồ hình ‘Ta’ và các Tương quan phải xử lí .
Ngũ đức của Nho giáo là sự chỉ dẫn cho con người cách xử lí các tương quan trong sự sống để đạt đến hạnh phúc .

Đồ hình 5 Đức xếp theo Ngũ Hành của Dịch học Hùng Việt
Ý nghĩa của Ngũ Đức theo Dịch học Hùng Việt .
Ngoài đức Nhân có tính bao quát , đức Tín và đức Lễ xử lí mối tương quan nội thân 1 vô hình và 2 hữu hình , đức Nghĩa và đức Trí hướng dẫn con người xử lí mối tương quan giữa Ta và bên ngoài tức đối Ngoại .


* Đức Nhân
Từ Nhân trong tiếng Việt (không phải chữ) vừa có nghĩa là con người vừa mang nghĩa là cốt lõi bên trong của sự vật .
Hiện nay Nhân đang được đánh đồng với Nhân ái – Nhân từ , người với người đối xử với nhau trên cơ sở tình thương yêu.
Thực ra đã có sự lẫn lộn , đức Nhân không phải là lòng thương người .
Đức Nhân dạy Quân tử phải lấy ‘người’ là gốc rễ của suy tư và hành động ,con người là chủ vũ trụ và cuộc nhân sinh , mỗi người có 1 trời riêng đất riêng , là 1 chủ thể không thể thay thế , ở tầm vi mô thì ‘Nhân’ là chính ta , còn tầm vĩ mô thì Nhân là con người nói chung , con người có địa vị hết sức cao trọng sánh ngang với trời đất , bản thân sinh ra là đả đủ lí do để tồn tại chẳng cần phải nhờ vào bất cứ thứ gì ngoại thân , tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình là mục tiêu tối hậu của con người đấy mới là tinh thần Nhân bản đích thực ,mọi ý hướng khác như phải sống cho lí tưởng này lí tưởng khác hoặc sống để thực hiện lời dạy của đấng này đấng nọ đều là vong thân , dĩ nhiên con người là sinh vật xã hội vì vậy chẳng thể có hạnh phúc cho riêng mình mà luôn luôn là hạnh phúc của ‘chúng ta’ .


* Đức Tín
Theo quan niệm cũ đức Tín là niềm tin , bậc quân tử phải giữ chữ tín tức trước sau như một để tạo ra sự tin tưởng nơi người khác . không có đức Tín thì xã hội sẽ trở nên rối ḷoạn .
Theo quan niệm của Dịch học Hùng Việt chữ tín chỉ là 1 phần của đức Tín .Phần quan trọng nhất đức Tín là sự tự tin , như đã nói ở phần đức Nhân ; con người là chủ vũ trụ và cuộc nhân sinh , mỗi người có 1 trời riêng đất riêng , là 1 chủ thể không thể thay thế trong bức tranh ‘cuộc đời’ . đức Tín dạy để xứng với địa vị chủ thể con người phải tự chủ mà tự tin là bước đầu của tự chủ không tự tin thì không thể nào tự chủ được , con đường tu đạo của người Quân tử trước tiên phải tự tin sau mới tiến lên tự cường bất tức và sau cùng khi đã hội đủ các điều kiện về tri thức ,vật chất và xã hội sẽ trở thành con người tự chủ thực sự xứng với vị trí tài Nhân ngang hàng với tài Thiên và tài Địa làm nên vũ trụ .
Tự tin và tự cường làm nên chính mình , chữ Tín là chủ trong tương quan ta với người . chữ tín quan trọng trong cả không và thời gian , chất và lượng , làm đúng những gì đã kết ước sẽ mang lại uy tín cho mình , uy tín chính là hình ảnh người quân tử trong con mắt người khác .


* Đức Lễ
Đức Tín xử lí phần vô hình trong chính con người mình còn đức Lễ thể hiện mình ra với cộng đồng và thế giới tức cái ‘ta’ thể hiện ra bên ngoài . lễ không phải chỉ là hình thức suông mà là phản ánh bề trong người ra thế giới hữu hình bên ngoài .
Lời ăn tiếng nói , cử chỉ đi đứng dáng điếu ăn mặc hết thảy thuộc về Lễ , khóc đúng nơi cười đúng chỗ cũng là Lễ . kính trên nhường dưới cũng là lễ ,thể hiện thái độ tôn trong người khác cũng là Lễ
Phần nào đó với trẻ em thì đức Lễ rất gần với Lễ phép với người lớn thì Lễ ngày nay chính là lối cư sử văn minh lịch sự , tóm lại Lễ thể hiện cái tâm bên trong con người bẳng nét đẹp bề ngoài .
Áo xô chân đất không ăn ngon mặc đẹp trong thời gian cư tang cha mẹ không phải vì con mắt người đời mà là sự thể hiện lòng đau buồn thương nhớ thực sự bên trong .
Chữ Lễ cũng phần nào đó đồng nghĩa với Lễ nghi , cái uy nghiêm trang trọng đẹp đẽ bên ngoài không chỉ ảnh hưởng đến thãi độ người ta ngay lúc đấy và sâu hơn nữa sẽ dần thấm vào trong tâm hồn con người để từ đó thay đổi hành vi , đấy cũng là 1 cách giáo dục hữu hiệu .
Tóm lại Lễ là nề nếp phải theo để sinh hoạt xã hội đẹp đẽ hơn , con người cảm thấy thoải mái hơn trong cuộc sống .


* Đức Nghĩa
Đức Nghĩa chỉ ra cách xử lí mối quan hệ giữa ta và người khác mà điểm mấu chốt là cân bằng những gì nhận và trả cả trong mặt hữu hình và vô hình .
Con người từ khi sinh ra tập đi tập nói là đã mang nợ đối với xã hội , không học được từ cộng đồng thì ngay những điểm tưởng là nhỏ nhặt nhất như đi đứng nói năng ta cũng không thể tự có , nếu lọt lòng rồi bị bỏ rơi lớn lên trong bầy sói thì cùng lắm ta cũng chỉ biết nhe răng gầm gừ tru tréo mà thôi ,bản năng sinh vật không cho ta khả năng tư duy vì tư duy cao cấp ở người dựa trên hệ thống tín hiệu mà nền tảng là ngôn ngữ ., dù vô ý hay hữu ý thực sự để thành người ta đã học hỏi rất nhiều từ người khác vậy nên để trả ơn thì phải sống có trách nhiệm với cộng đồng , trách nhiệm này nới rộng ra chính là lòng yêu nước nghĩa đồng bào .
Với người thường thì cho và nhận cân bằng đã là đủ nhưng Nho giạo đòi hỏi người Quân tử không được so đo tính toán thiệt hơn mà phải …Quân tử ‘thi ân bất cầu báo’. có như thế mới xứng làm gương soi cho người khác .
Bản thân ta là xương máu của cha mẹ , lớn lên bằng mồ hôi đôi khi là cả nước mắt của đấng sinh thành , ơn nghĩa này lớn đến độ chẳng thể nào trả nổi nên với người quân tử đức Nghĩa thực hành ở độ cao nhất là đạo Hiếu . Cha mẹ theo chiều thẳng truyền đến Ông bà và truyền lên mãi sau cùng là Tổ tiên dòng giống .
Chốn dung thân trên mặt đất này của ta từ đâu mà có , tiền nhân đã đổ không biết bao nhiêu công sức và máu đào để dựng và giữ nước vì thế đạo lí ‘uống nước nhớ nguồn’ là đức Nghĩa của người Quân tử đối với tiền nhân .
Ngày nay sự tiếp thu kiến thức của mỗi người đã trở nên đa dạng nhiều nguồn nhưng về căn bản vẫn là những gì nhận được từ người Thày dạy học . dù nay đã khác xưa việc tôn sư trọng đạo ngày xưa vẫn phải giữ nếu muốn làm ‘người’ đúng nghĩa .
Vì sống là sống với người khác nên Đức Nghĩa hầu như bao trùm mọi sinh hoạt , mỗi ngày sống là mỗi ngày đầy ắp cho và nhận , nhiều sự việc quen thuộc tới nỗi bản thân không còn nhận biết đặc biệt là trong cộng đồng gia đình , mỗi giờ mỗi phút trôi qua là không biết bao nhiêu lần cho và nhận . chính như thế mà nghĩa vợ chồng trở thành thứ Nghĩa ngoại hạng vượt ngoài ý thức so với nghĩa anh nghĩa bạn bè .
Có thể nói tính cách con người được đ̣úc khuôn bởi cộng đồng , sự việc trao truyền này ổn cố lâu dài dần dần trở thành dân tộc tính , tập tính sinh hoṣt của cộng đồng chính là nếp Văn hóa đánh dấu phân biệt tộc người này và tộc người khác .


* Đức Trí
Vạn sự trong cuộc sống luôn biến đổi , Đức Trí buộc người Quân tử ngoài nhân cách phải là người sáng suốt , biết trước điều sẽ xảy ra , biết việc đúng – sai , đem Trí kết hợp với đức Nghĩa biết lẽ phải – trái , biết cái gì thuộc về mình cái gì của người . Việc gì phải làm việc gì không thể .
Đức Trí dạy con gười phải luôn học tập phần thì mài dũa khả năng lí luận phán đoán sao cho ngày thêm sắc bén , phần khác luôn nâng cao kiến thức bằng con đường tiếp thu từ kho kiến thức chung sẵn có của nhân loại .
Khám phá điều mới thì có lẽ chỉ một số bộ óc siêu việt mới làm được còn việc áp dụ̀ng kiến thức sẵn có giải quyết những vấn đề cụ thể trong đời sống hàng ngày thì ai cũng có thể làm được , chỉ khác nhau ở chỗ việc to việc nhỏ , việc khó việc dễ thành công hay khồng tùy thuộc vào sự sáng suốt của riêng mỗi người . Thay đổi độ thông minh bẩm sinh thì không thể nhưng thông qua con đường học tập để nâng cao khả năng phán đoán và tri thức thì hoàn toàn có thể .
Trí là Sự sáng giúp con người dựa vào cái đã biết mà suy ra cái sẽ xảy đến , biết thay đổi kết qủa bằng cách điều chỉnh nguyên nhân để có thể làm lợi tối đa cho mình và cộng đồng . đức Trí đặt ỡ phía Tây ‘ không thay đổi’của Dịch học vì tự nhiên biến đổi theo quy luật của tự nhiên không thay đổi được , con người chỉ có thể vận dụng những quy luật ấy để giảm hại hoặc thu lợi cho mình mà thôi .
Độ sáng của Trí óc thay đổi sẽ khiến sự nhìn nhận về vũ trụ và nhân sinh thay đổi , nhận thức thay đổi ắt hành động cũng sẽ khác đi cuối cùng là thay đổi cả cốt cách con người . Vì lẽ này mà Dịch học rất xem trọng đức Trí , mở mang đầu óc nâng cao dân trí là kênh con người có thể chủ động ; thông qua việc giáo dục mà chuyển biến xã hội .


Tóm lại : Ngũ Đức không phải là cái gì xa vời , mà là việc phải làm hàng ngày hàng giờ , con người phải luôn tu học thực hiện Ngũ Đức để hành động đúng trong việc xử lí mối tương quan với chính mình , với tự nhiên và cộng đồng để kiến tạo xã hội ngày càng tốt đẹp đáng sống hơn trong đó mỗi người tìm thấy hạnh phúc của riêng mình .

Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2020

Việt ngữ và Dịch học .

Cụ Nguyễn Du tả cảnh Kim tìm Kiều nhơng bóng dáng người xưa đâu
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Trong câu cảnh Hoa đào nở đã chỉ ra thời điểm này là mùa Xuân , mùa xuân sao lại cười gió Đông ? .
Thực ra gió đông trong câu không phải nói đến gió mùa đông mà là gió từ phương đông lại ,nếu không dùng đến Ngũ hành của Dịch học thì không thể biết gío Đông hay Đông phong chính là gío mùa Xuân , chỉ gío Xuân thì ý tứ mới hợp với hoa Đào nở .
Từ Đông Phong được nói đến khá nhiều trong văn thơ Trung hoa và hầu hết đều phải hiểu Đông phong là gíó Xuân mới trọn nghĩa .
Sở dĩ như thế vì Địa lí tự nhiên của Thiên hạ xưa được phân chia theo Ngũ hành Dịch học :
_Mùa Xuân thuộc hành Mộc cũng là hành của phương Đông nên gió Đông cũng chính là gío Xuân màu Xanh
_Mùa Hạ thuộc hành Hỏa, phương Nam (ngày nay ngược với xưa) thuộc Hỏa, do đó gió mùa hè gọi là gió nồm ( Nôm – Nồm là biến âm của Nam) , trong Ngũ Sắc là màu Đỏ .
_Mùa Thu thuộc hành Thổ , phương Tây thuộc Thổ chỉ Đất – Đã́, do đó gió mùa Thu là gió Tây
_Mùa Đông thuộc hành Thủy, phương Bắc ngày nay thuộc Thủy tượng của Nước màu Đen, do đó gió mùa đông là gió bấc ( Bấc là biến âm của Bắc).
Thực thế nếu không vận dụng Dịch lí thì ngày nay không thể hiểu được nhiều điều .
Không chỉ riêng với Kiề̀u của Nguyễn Du , Ngũ hành có dấu ấn rất đậm trong văn chương Việt như trong thơ của vị quan túc nho Nguyễn Công Trứ :

Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông định lên Đoài đoài tan

Hình thể địa lí tự nhiên Việt Nam phía Tây là núi phía Đông là Biển nên tác gỉa mới viết : xuống Đông và Lên Đoài .
Tại sao chí làm trai ghánh việc Thiên hạ trên vai xuống Đông Đông định lên Đoài Đoàn tan ?
Trên thế giới duy nhất người Việt xưa gọi phương Tây là phương Đoài . Đoài hay Đoạt là quẻ Dịch trấn phía Tây trong Hậu thiên Bát quái . Chỉ riêng điều này thôi cũng cho thấy Dịch học đã ‘thâm căn cố đê’́ trong văn minh Việt từ đời nảo đời nao rồi.
Phải chăng ý trong thơ nói phía Tây nước Việt đám khởi loạn hay bọn đầu trộm đuôi cướp đang tụ họp lập bè kết đảng còn ở phía Đông thì đang động loạn rối ren ?.
Sự thực không phải vậy , để diễn đạt chí khí của người làm trai nước Việt cụ Nguyễn công Trứ đã mượn ý từ tính chất của Bát quái .

Quẻ Đoài ở phía Tây Hậu Thiên Bát quái , Tính của quẻ Đoài là ‘Tụ’ ý trong câu thơ nói đến sự tụ tập lập bè kết đảng mưu toan điều bất chính và với khí phách và tài ba đấng là Trai đã bị đập tan bè đảng sắp làm khổ dân đó. ,
Phía Đông Hậu thiên Bát quái là quẻ Chấn tính Động , động ở đây là sự loạn lạc xáo trộn , khi ‘người làm trai’ anh hùng đến thì đã bình yên trở lại ,
Trong bài thơ về chí làm trai này tác gỉa đã hoạ nên hình ảnh đấng nam nhi vớí tài thao lược và khí phách anh hùng mà nếu không dùng lăng kích Dịch học Dịch thì người đọc không thể nào nắm bắt .

Không chỉ với Thơ văn , Ngôn ngữ Việt chứa đựng đầy dãy yếu tố Dịch học , thông thường đến độ người dùng cũng chẳng biết là mình đã dụng Dịch .
Mãi thế kỉ 20 khi đào được bản Kinh Dịch chép trên lụa trong 1 ngôi mộ cổ người Trung quốc mới biết xưa quẻ Đoài gọi là quẻ Đoạt vậy mà trong Việt ngữ không biết từ đời nào đã có từ kép ‘ định đoạt’.
Dịch học quan niệm phía Tây tịnh hay định đối phản với phía Đông động ,trong đồ hình Hậu thiên Bát quái quẻ Đoạt nằm ở phía Tây , phải chăng chính vì thế mà Việt ngữ hình thành từ kép ‘ định – Đoạt’ ?.
Lạ hơn nữa chỉ với từ kép ‘đanh đa’ đã giúp Dịch học Hùng Việt xác định trong Ngũ hành phía Tây là hành Thổ tượng của đất-đá không phải là hành Kim là kim loại của Dịch học Trung quốc . Đanh đinh định tịnh chỉ là những biến âm và là tính chất của phương Tây theo Dịch học . đanh đi cùng đá chỉ ra phía Tây thuộc hành Thổ , Phía Đông hành Mộc là gỗ , Tây là Thổ đất đá , gỗ và đá là 2 loại vật liệu phổ biến người cổ đại dùng trong cuộc sống , thời vua Phục Hy trên quan Thiên tượng dưới xét địa hình để tác Dịch tức thời còn ‘ăn hang ở lỗ’ thì làm gì đã biết đến kim loại ?.
Đặc biệt nếu không vận dụng Dịch học thì người Việt không thể thấu đáo về lịch sử đất nước mình .
Tại sao người Việt lại gọi quốc gia là nước , nước thường đi đôi với non thành từ kép ’nước – non’.
Dụng Dịch giải mã : nước thuộc hành Thủy ở phía Bắc ngày nay xưa theo Dịch học là phía Nam trong đồ hình Ngũ Hành , non cũng là núi có tượng là quẻ Cấn hay Căn cũng ở phía Bắc ngày nay xưa theo Dịch học là phía Nam .
Dịch học Hùng Việt cho thực ra ‘Nước’ không phải là nước vật chất mà là danh từ riêng tên gọi xưa của Việt Nam ngày nay , qua lăng kính Dịch học thì phải hiểu ‘Nước’ là quốc gia ở về phương Nam xưa (nay đã lộn ngược Nam thành Bắc) đối diện với quốc gia ‘Hồ Tôn’ ở hướng Xích đạo sau người Việt đã biến quốc hiệu của nước mình thành ra từ chung gọi mọi quốc gia .
Kiến giải này đã được kiện chứng chứng bởi tư liệu cổ ; nước Việt cổ xưa nhất có tên là Xích Qủy sau có thời gọi là nước Lạc .
Phép phiên thiết cho : Xích qủy hay Thích qủy thiết Thủy , thủy chính là Nước
Lạc là biến âm của Nác và cũng là Nước mà thôi .
Theo Dịch học phải hiểu Nước thuộc hành Thủy chỉ phương Nam như thế Xích Qủy hay Lạc đều có nghĩa là quốc gia ở phương Nam như 1 số tư liệu cổ viết là Nam bang .


(hoành phi Nam bang triệu tổ ở đền Hùng )..
Tương tự ngày nay có nhiều điều bị hiểu sai do không biết đến Dịch học như 2 con vật thường nói tới : Thanh long và Bạch hổ .
Thanh long không có nghĩa là con rồng màu xanh , Bạch hổ không là con hổ màu trắng .
Theo Dịch học màu xanh chỉ phương Đông và màu Trắng chỉ phương Tây, Thanh long – Bạch hổ thực nghĩa là Rồng phương Đông và Hổ phương Tây của hệ Điểu Thú văn không phải nghĩa là con Rồng xanh và con Hổ trắng .

Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2020

Tí chút mà vô cùng lớn

Dịch học không phải là những điều qúa cao siêu mà trái lại rất đơn giản .
Ngày nay người thường nói : Chu dịch là Dịch học của nhà Chu và tưởng tượng ra những nền Dịch học của những ‘ nhà’ khác như Liên sơn Dịch , Quy tàng Dịch .v.v. thực là rối rắm .
Thực ra nhân loại chỉ có 1 nền Dịch học duy nhất : Chu Dịch nghĩa là sự chuyển biến có tính chu kì tức lập đi lập lại hết vòng này đến vòng khác .
Nền tảng của Dịch học chính là những chu kì biến đổi tự nhiên , hết ngày tới đêm , đêm rồi lại ngày cho ra khái niệm Âm Dương căn bản , 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông xoay vần mãi là Tứ tượng , 1 vòng 12 tháng là 1 năm , năm này tiếp nối bởi năm sau , giáp vòng 12 tháng gợi ra ý niệm 12 địa chi .
12 Địa chi được tượng trưng bởi 12 con vật của loại hình chữ viết tối sơ mà đức Khổng Tử trong sách Kinh Dịch gọi là Điểu thú văn .
Dịch không hề phức tạp , tất cả các phần tử đều cấu thành bởi độ số Âm Dương và chiều hướng biến đổi tăng hay giảm gọi là Tiêu – Trưởng .
Người ta vẫn thường cho Dịch học là của Trung hoa hiểu theo nghĩa Trung quốc ngày nay .
Thực ra không phải vậy , cụ thể ta có thể xét nguồn gốc 12 Điạ chi và 12 con Giáp là những thành phần rất quan trọng của Văn minh Trung hoa để xác định .


Đồ hình 12 Điạ chi đang biết đặt trong trục không và Thời gian .
Trục Tý – Ngọ trùng với trục Bắc – Nam hiện nay thì không phải bàn , nhưng với trục Đông – Tây thì phải xem lại .
Tục ngữ Việt Nam có câu ‘xiên sẹo Mẹo – Dậu’ chỉ ra 2 chi Mẹo – Dậu đã bị đảo ngược vị trí , xiên sẹo ở đây có ý là điều không đúng , đã bị làm cho khác đi . rõ ràng theo Dịch học Mưu Mẹo thuộc về bên Lí không thể nằm bên Tình .


12 địa chi phân ra theo 4 mủa – 4 phương .
Chi Tí ở chính hướng của Đất có đặc tính : thắp bé – rét lạnh ngược với chi Ngọ ở vị trí của Trời nên cao to , nóng bức .
Chi Mão phía Tây chủ Lí lẽ – mưu trí ., , chi Dậu hướng Đông chủ Tình cảm thân thương .
Xét ra :
Trong tiếng Việt Tí nghĩa là bé nhỏ chỉ 1 chút thôi hoàn toàn đúng với tính chất chi Tí trong Dịch học (xem đồ hình) , Tí trong Hán văn có được ý nghĩa chuẩn xác như thế không ?.
Tại sao chi Tý lại được ‘viết’ bằng hình ảnh con Chuột theo Điểu Thú văn ?.
Người viết đã nhận ra Nguyên tắc chọn ‘chữ’ tượng trưng cho các Chi để ghi chép lại trên văn bản bằng chữ Điểu thú là : cận âm hay chỉ ý .
Việt ngữ xét về thanh âm và tính chất không có con vật nào có thể tượng trưng cho chi Tý nên người xưa đã dùng từ đồng ngfhĩa thay thế .
Tý cũng là 1 chút , chút cận âm với Chụt – Chuột nên hình ảnh con chuột trong Điểu Thú văn đã được chọn làm ‘ chữ’ đại diện cho chi Tý .
Tương tự như thế người Việt xưa đã chọn con Dê đại diện cho chi Mùi , âm mùi không có tên con vật nào gần giống nhưng người Việt thường dùng đi đôi ‘mùi – vị’ , Vị cũng phát âm là Dị , dị rất gần với Dê – con Dê .
Trường hợp chi Mẹo hay Mão thì ít ‘phức tạp’ hơn vì tên gọi Mèo với Mẹo hầu như là 1,
Trung quốc và nhiều nước khác chịu ảnh hưởng văn hóa của Trung quốc lại chọn con Thỏ đại diện cho chi Mão – Mẹo , xét về âm đọc thì con Thỏ chẳng dính dáng gì với chi Mão – Mẹo.
Sự thể như vậy mà nhiều người vẫn cho là từ nguyên gốc ‘văn minh Trung hoa’ con thỏ mới là đại diện của chi Mẹo sau Việt Nam không hiểu vì lí do gì đó ??? đã đổi Thỏ thành Mèo , theo thiển ý thì ai nói như thế là nói bừa vì từ ban đầu nếu dùng hình ảnh con Thỏ làm đại diện thì không thể có chi Mẹo mà phải gọi là chi Thố – Thổ – Thồ gì …gì đó mới hợp lẽ .
Xét ra cả về thanh âm và tính chất : Chuột Tàu chẳng dính dáng gì với Tí , con dê họ gọi là dương càng xa nữa so với chi Mùi , Thò – Thố làm sao có thể đại diện cho Mão – Mẹo ?
Tóm lại chỉ xét 3 trường hợp điển hình là có thể kết luận : 12 địa chi và 12 con Giáp thuộc về nền văn minh nào Việt hay Tàu .

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2018

Bàn thêm về Tứ Tượng - Tứ Linh Việt

Tứ Tượng là 4 trạng thái đặc biêt tiêu biểu cho Chu trình Âm Dương tiêu trưởng :
* Thái Dương là lúc Dương – hữu hình – thân xác cực đại , Âm vô hình – linh hồn bằng 0 , Thái Dương được đặt bên Dưới hay hướng đối diện với Xích đạo .
* Thiếu Dương :đại biểu cho tiến trình Dương tiêu – Âm trưởng .; trong bản thân sự vật phần Dương – hữu hình nhỏ dần đi nhường chỗ cho phần Âm vô hình lớn lên .. trong đồ hình vũ trụ Thiếu Dương đặt ở phía Đông
* Thái Âm : Âm vô hình – phần Hồn cực đại và Dương – hữu hình bằng 0. sự vật lúc này chỉ là 1 khối năng lượng vô hình không trọng lượng . Thái dương nằm ở phía Trên hoặc phía Xích đạo trong không gian Dịch học.
* Thiếu Âm : đại biểu cho tiến trình Âm tiêu – Dương trưởng , Âm nhỏ dần để phần Dương hữu hình – thân xác tăng thêm. Thiếu Âm nằm ở phía Tây .

Đồ hình Tứ Tượng của Dịch học Hùng Việt
Trong mặt phẳng thẳng đứng : Thái âm Vô hình ở trên và Thái Dương Hữu hình ở dưới , Thiếu Dương bên Đông và Thiếu Âm bên Tây .Còn ở mặt phẳng nằm ngang thì Thái Âm ở về phía Xích đạo , Thái dương – vật chất hữu hình nằm ở hướng đối diện tức hướng Nam xưa ., Thiếu Dương và Thiếu Âm giữ nguyên 2 phía Đông Tây .

Tính chất của 4 phương theo quan niệm Dịch học :
Đông > động , sinh động và Tây > tử – từ li
Hướng Xích đạo là hướng Viêm nhiệt và đối diện là hướng Hồi quy theo nghĩa Thái Dương là điểm Dương cực đại cũng chính là lúc xoay chiều , chấm dứt chu trình trước để bắt đầu chu trình sau ; hồi quy nghĩa là quay lại điểm khởi đầu .
Tứ Tượng được áp dụng vào rất nhiều hệ khác như chu trình Âm – Dương tiêu trưởng trong 1 ngày là : Sáng – Trưa – Chiều – Tối , với năm là 4 muà Xuân – Hạ – Thu Đông , Thiếu Dương là lúc Xuân phân , Thái Âm là Hạ chí , Thiếu Âm là Thu phân và Thái Dương là Đông chí .
Tứ Tượng khi biểu hiện bằng Vạch đứt vạch liền thì tên gọi như trên nhưng cũng có cách biểu hiện khác ; cổ xưa nhất có lẽ là Tứ Tượng ‘viết’ bằng Điểu -Thú văn gọi là Tứ Linh .
Trong văn minh Đông Phương Tứ Linh là 4 thần Điểu hay thần Thú Long – Li – Quy – Phụng tiêu biểu cho Tứ phương : Đông – Tây – Nam – Bắc .
Xưa nay người ta vẫn cho rằng Long Li Quy Phụng là từ Hán Việt và Tứ linh là đặc điểm của nền văn minh Hán tộc .
Thực ra cả 4 Từ Long Li Quy Phụng đều là từ kí âm chữ Nho 4 động từ Việt ngữ .
Tứ linh là những cầm – thú được thiêng hóa đặt làm biểu tượng cho 4 bên – 2 trục trong đồ hình vũ trụ – nhân sinh theo quan niệm Dịch học diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân mộc mạc là :
Đông – rung , Tây – tử , Bắc xưa – phồng , Nam xưa – quay . (xưa ngược với nay).
Khi con người tiến bộ hơn thêm vào sự mộc mạc có sẵn yếu tố văn chương và triết lí thì phương Đông rung biến thành‘sinh động’ , phồng tính chất phương Bắc – bức xưa đổi thành ‘viêm nhiệt’ , phía Tây mặt trời lặn là lúc chia lìa đổi thành ‘từ li’ và Nam xưa là lúc trở lại điểm xuất phát bắt đầu vòng sau chữ nghĩa gọi là ‘hồi quy’.
Đây là loại hình văn tự tối cổ gọi là Điểu thú văn tương tự như 12 Địa chi và 12 con Giáp nhưng ở Tứ linh điểm đặc biệt là không phải những sinh vật có thật mà chỉ trừ hình dáng con Quy còn lại là do con người tưởng tượng vẽ ra .
Trục dọc : trên là chim Phụng – Phượng , dưới là Quy – Rùa .
Trục ngang : Đông là Long – Rồng , Tây là Li – Lân .
Như đã nói ;Long Li Quy Phụng là biến âm của 4 động từ : rung – phồng – lìa – quay tiếng Việt chi ra tính chất của tứ phương.
*Rung > lung > long – con Rồng – linh Long. Linh long là có hình dạng tưởng tượng kết hợp mình rắn thêm chân và đầu cá Sấu thêm sừng .
Phương Đông sinh động , ngôn ngữ dân gian Việt là rung , rung thừơng đi đôi tạo thành từ kép ‘rung – động’ . Trong Dịch học phía Đông là quẻ Thìn hay Chấn tượng là con Rồng – Long và trong 5 sắc phương Đông sắc Xanh nên có từ kép Thanh – long thường bị hiểu sai là con rồng có màu xanh .
*lìa – Li- lửa ; con Lân – linh Lân . Linh Lân có hình dáng tổng hợp từ nhiều loài thú 4 chân mà thành , rất có thể hình dạng ban đầu của con Lân – Li là con Hổ – hỏa dần về sau không biết vì lí do gì mà Lân biến đổi thành hình dạng tổng hợp như bây giờ .
Phía Tây , Tây là nơi mặt trời lặn là hướng của từ li ; tây > tử .
Li là lỉ̀a đồng âm với từ lửa tiếng Việt ; Đưởng ngữ là hỏa , hỏa > nên người ta dùng hình ảnh con Hổ để biểu hiện , phương Tây thuộc sắc Trắng tạo ra từ kép Bạch hổ , Bạch hổ hiểu theo nghĩa con hổ trắng là sai , thực ra con hổ và sắc Trắng là 2 Dịch tượng cùng chỉ phía Tây không mang nghĩa là con hổ lông màu trắng . Theo phép phiên thiết thì : lân tri thiết li , không hiểu tại sao người ta đổi không dùng từ Li mà gọi là con Lân hay Kì Lân đồng thời họ còn cố ý nhập nhèm đánh tráo thay hình dạng con Hổ bằng Sư tử . phải chăng vì trên đất Hoa nam – Giao chỉ của dòng Bách Việt không hề có sư tử nên 1 khi đã công nhận Linh Lân mang hình dáng sư tử thì đương nhiên …Tứ linh không dính dáng gì ̣với văn hóa văn minh Việt ?.
*Phồng – viêm nhiệt , chim Phụng hay Phượng .- Linh Phượng , Vị trí của Phụng là vị trí của Thái Âm tức bên trên , vì thế Phụng – Phựơng mang hình ảnh loài có cánh bay trên trời .
Theo Dịch học hướng Xích đạo là hướng nóng – bức , xưa gọi là hướng Bức , bức biến âm thành Bắc , trong từ kép Viêm – nhiệt thi nhiệt là nóng còn viêm là sưng phồng tức trương nở lớn ra về thể tích .
Phồng – phùng biến âm thành Phụng – Phượng là chim thần – Linh điểu tượng trưng cho bên trên hay phía Xích đạo nóng bức .
* Quay – Qui tiên ; con Quy – Linh Quy .
Linh Quy đặt ở vị trí Thái Dương tức ở bên dưới hay phía đối diện phía Bắc – bức .
từ vị trí Thái Dương tức Dương cực đại khởi đầu tiến trình Dương tiêu – Âm trưởng , đến vị trí Thái Âm thì Dương bằng 0 cũng là điểm bắt đầu Âm tiêu – Dương trưởng cho đến Thái Dương là phần Dương cực đại . Thái Dương là lúc kết thúc chu trình trước đồng thời là lúc khởi đầu chu trình sau tức quay trở lại lúc ban đầu , hồi quy là quay lại điểm ban đầu .
Quy – rùa là con vật có thực nên hình dạng Linh Quy là hình dạng đúng thực không phải tưởng tượng vẽ ra như các ‘Linh’ khác .
Tóm lại :với gốc gác :Rung – Phồng – Lìa – Quay thì Tứ Linh : Long – Phụng – Lân – Quy đương nhiên thuộc về nền văn hóa văn minh Việt không phải bàn cãi gì nữa .
Hình ảnh nhị Linh : Phụng và Quy được đưa vào đứng chầu trong đền miếu ở Việt Nam như biểu tượng cho chốn linh thiêng .
Nhìn ở góc độ Dịch học thì hình tượng :Phụng thái Âm bên trên Quy Thái Dương bên dưới làm thành trục dọc tượng trưng cho vũ trụ , trên là Trời dưới là Đất kết hợp với trục ngang Long và Li tượng trưng cho nhân sinh , (bên Đông –Thiếu Dương là cõi Dương Trần và bên Tây –Thiếu Âm là chốn Âm phủ) .
Tất cả các Dịch tượng dù hệ nút số hay Vạch quẻ , dù Tứ Tượng Tứ Linh hay hệ Ngũ sắc thì các phần tử đều ngang nhau không hề có việc bên trọng bên khinh , đâu phải như đám cờ bạc mà Đỏ tốt Đen xấu …, bài học đầu tiên của Dịch học về Âm – Dương là : Cô Âm bất sinh cô Dương bất hiển ., ; không có phần xác thì hồn nhập vào đâu để mà sống ? , ngược lại không có phần Hồn thì chỉ là loài cầm thú đâu có thể thành Người .
Chiếu theo quan niệm Dịch học về Tứ Linh đặc biệt là về trục dọc Phụng – Quy tượng trưng cho Trời – Đất thì thấy hình tượng phổ biên nơi đền miếu Việt rất là không ổn .

Bố trí hình tượng Phụng cỡi trên Quy gây ra ý nghĩ sai lầm :Phụng cao qúi Quy hèn mọn và nếu cộng thêm với việc tạo hình không cân xứng Phụng qúa lớn so với Quy qúa bé khiến không khỏi có cảm tưởng Quy chỉ là cái chân đế của tượng Linh Phụng .

Nghĩ cho kĩ trong tứ linh chỉ duy có linh Quy là có công giúp đỡ thiết thực cho người Việt trong việc tạo lập cuộc sống và giữ nước chống lại kẻ thù hung hiểm còn 3 linh kia chỉ ….đứng làm dáng tô điểm cho trời đất mà thôi ..:
*Linh Quy giúp con người trong việc dựng nhà sàn để an cư chép trong truyền thuyết người Mường .
*Thần Kim quy chính xác ra là Kinh quy nghĩa là con rùa sông không phải rùa vàng như đang hiểu tặng An Dương vương chiếc vuốt để chế nỏ thần bắn 1 lần trăm mũi tên dùng trong việc giữ nước .
*Thần Kim Quy tặng Kiếm báu cho vua Lê lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh – Ngô xâm lược .
Kể ra công lao – ân tình của linh Quy – cụ Rùa lớn lắm còn Linh Phụng có gì đâu …sao con cháu lại tạo ra cái hình tượng kì quái thế ?
Tiếc rằng sự tạo hình không đúng về tượng Phụng – Quy đã qúa phổ biến …đâu đâu đền miếu nào cũng như thế cả nên việc sửa đổi sẽ vô cùng kho khăn thậm chí là không thể .
Không lẽ đã biết sai mà mãi không sửa sao ?.