Một vũ khí “tinh thần” (mưu lược) quan trọng của Khương Tử Nha được nói tới là cuốn Thiên thư (Sách trời). Trong chuyện của Phù Đổng Thiên vương bảo bối tương ứng là chiếc Nón sắt. Chữ Sắt trong chuyện Thánh Dóng không nên hiểu ra thành “thời kỳ đồ sắt” Sắt ở đây nên hiểu tương đương với từ “Thần”. Ngựa sắt là con ngựa thần Tứ bất tướng. Roi sắt là Roi đả thần. Còn Nón sắt hẳn là chỉ Thiên thư.
Trong Ngọc phả Hùng Vương còn có chỗ nói tới Thiên thư: Vào năm Giáp Tí bỗng thấy biên giới phía Bắc có thư gửi cấp báo. Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ phía Bắc tiến sang, giáo giáp kín trời, tinh kỳ rợp đất. Quả đúng như lời bà mo đã nói. Vua bèn thành tâm lập đàn trai giới, thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến cầu niệm suốt trong ba ngày, trông mong lúc trời đất, tiền thánh tổ Long Quân âm phù cho tướng giúp yên. Được một tháng, trời ứng mưa to sấm gió nổi lên. Bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ ngồi ở ngoài đường, cười nói ca hát nhảy múa. Ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. Sứ giả vào tâu Vua. Vua đích thân ra đón, mời vào đàn tế, hỏi rằng: – Nay quốc gia có việc, giặc tới xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu rồi đáp: – Ta từng đến khắp đáy bể cửa trời, biết tới sách thần phép ước trời đất. Sẽ thử vận mà bói một quẻ. Rồi nói với Vua: – Ba năm sau, giặc xâm lăng nước này, sẽ có được người tới, giặc sẽ được dẹp! Lão ông lại nói chuyện với Vua, chân tình giảng giải, rồi tặng cho Vua một cuốn sách thần. Nói xong cụ già vút lên không bay đi.
Phù điêu thể hiện trăm trai của mẹ Âu Cơ tại chùa Hoa Long, bến Việt Trì.
Ngọc phả không kể cuốn Thần thư này được dùng làm gì trong cuộc chiến chống giặc Ân. Tuy nhiên, cuốn Thiên thư được dùng ở một đoạn khác, là đoạn Âu Cơ sinh thai ngọc trăm trứng: Khi đó, có một cụ già tướng mạo trượng phu, râu tóc bạc phơ, dáng điệu tiên ông, đầu đội mũ trời gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi giày cỏ, tay cầm gậy tre, ra chơi ở bến sông Bạch Hạc Việt Trì, tại chùa Hoa Long. Ông già rửa chân bên sông, trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có quan trong triều là Tướng quân nguyên soái tiết chế trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu ở bên sông Việt Trì. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thủy, mặt hướng nhìn các sông Bạch Hạc Hoàng Hà Manh Hà, chân đạp lên tảng đá hình lưng rùa. Triều quan sai sứ giả nghênh đón tiên ông lên lầu hỏi chuyện với Nguyên soái. Quan đem hết sự thể bộc bạch chân tình, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về cung điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung, dùng đại lễ, mở tiệc chúc mừng. Vua hỏi cụ già rằng: – Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện, nhờ cụ chỉ giáo cho. Tiên ông ha hả cười vang. Vua vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông: – Nước sinh được trăm con trai, có trí tuệ cùng tài như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu thần xếp thứ tự luận anh em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho. Cụ ông đáp: – Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại, xem hết trời đất, đi thăm thế giới, đến tận Nam Miên, thấy phong cảnh đẹp. Vua nay muốnđặt tên cho trăm con trai. Ta có một quyển sách thần có thể bói biết được tinh thần trời đất trăng sao, gọi tên các phép tiên. Vua nói: Nước đã có thành tâm cầu đảo, đúng là cầu tất ứng. Tiên ông nói: Lão thành tâm bốc một quẻ trong Thiên thư xem tới trời định thế nào. Trước là để xác lập vương tử, cùng với tên gọi cho trăm trai. Xem tướng trăm trai thì Vua sẽ cử được người tài lập làm con trưởng, phân định thứ bậc anh em Tiên ông lấy bút viết ra, đặt tên cho các thần tướng, đặt lên chiếc mâm vàng.
Ông lão cầm gậy trúc đứng trên Bàn Thạch bên sông Nhị rõ ràng là ông Lã Vọng câu cá, được Chu Văn Vương cầu về giúp nước. Cuốn Thiên thư ở đây có tác dụng là: bói biết được tinh thần trời đất trăng sao, gọi tên các phép tiên. Cuốn Sách trời tức Hà thư, dùng để đoán định về tinh thần, phân định lãnh thổ, đặt tên các quốc gia chư hầu.
Bảng phong thần
Thiên thư phối hợp với chiếc Mâm vàng dùng để đặt tên cho trăm người con trai Bách Việt trong chuyện Âu Cơ (Cơ Xương Văn Vương trong Phong Thần diễn nghĩa cũng có 100 người con). Như vậy chiếc Mâm vàng chính là Bảng phong thần của Khương Tử Nha. Chiếc Mâm vàng này cũng đã dùng để bảo giữ thai ngọc của Âu Cơ: Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt bào ngọc lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, tức là chùa Từ Sơn Thiên Quang Hòa Thượng ở ngọn Thứu Lĩnh, đặt ở trong chùa. Mâm vàng ở đây dùng đặt đồ tế lễ các tướng lĩnh tử trận và đặt định trăm quan, trăm chư hầu là một dạng tế đàn. Hình ảnh thật của nó là các bàn đá hay các cự thạch lớn tìm thấy nhiều ở vùng Sóc Sơn. Tế đàn lớn cho phong thần của Phù Đổng chính là đỉnh núi đá Sóc – Vệ Linh, trước đây còn có mấy dấu chân ngựa, nước không bao giờ cạn.
Cự thạch ở Minh Trí, Sóc Sơn (Ảnh: Nguyễn Huân).
Có lẽ “Từ Sơn Thiên Quang Hòa Thượng“chính là Khương Thái Công, người đã tiến hành việc phong thần, tức là thiết lập chế độ lễ nhạc tín ngưỡng cho thiên hạ, và phong tước cho các công thần của nhà Chu sau cuộc chiến diệt Ân. Ngọc phả Hùng Vương viết, Lão tiên sau khi đặt tên cho trăm trai: … Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt việc đặt tên đã xong, tự nhiên có một làn mây xanh bay đến trên không trung, Tiên ông biến hoá bay về Thượng giới. Vua nói: Triều đình lòng kính cầu khẩn, trên đàn thành tâm được cảm ứng, thần đến từ phương Tây bày cách, mới biết lão Phật tiên ông hiển ứng giáng đàn giúp nước. Hôm nay lệnh các quan bái hạ. Trẫm lập một ngôi chùa tên là Từ Sơn Tuyên Quang Hoà Thượng Vạn Đức Thiền Sư…
Tam quan chùa Thiên Quang ở Nghĩa Lĩnh.
Câu đối ở đền Thượng Sóc Sơn:
天上降神鉄馬鐵鞭朱粤動
水中顯聖金鎗金甲太原寒 Thiên thượng giáng thần, thiết mã thiết tiên Chu Việt động Thủy trung hiển thánh, kim thương kim giáp Thái Nguyên hàn.
Dịch ý: Thần giáng từ trời, Roi tiên Ngựa sắt rung Chu Việt Nhân gian tỏ thánh, Giáp tre Mâm đá lạnh Thái Nguyên.
Khương Thái Công Lã Vọng, “từ trời thần giáng”, cưỡi ngựa sắt – Tứ Bất Tướng, dùng Roi sắt Đả Thần, làm kinh động miền đất Việt nhà Chu. Chiếc Mâm vàng – bàn đá dùng để phong thần, phong tước kiến địa. Áo giáp hoa tre – Hạnh Hoàng Kỳ làm vật hộ thân, làm cho quân giặc phương Bắc (Thái Nguyên) phải run sợ…
Truyền thuyết, tín ngưỡng và lễ tục của người Việt về cậu bé làng Phù Đổng – ông lão bên sông Nhị giúp Văn Lang Vũ Ninh đánh Trụ diệt Ân nay đã là di sản văn hóa phi vật thể thế giới. Câu chuyện lập quốc Văn Lang, tạo nên một thiên hạ thái bình thịnh trị của nhà Chu với hàng trăm chư hầu, tồn tại hàng trăm năm, không hề bị quên lãng trong tâm thức Việt.
Phù Đổng Thiên Vương khi ra trận đánh giặc Ân giúp nước đã dùng những loại thần binh lợi khí gì? Xin xem xét từng món bảo bối của Thần vương.
Ngựa sắt
Theo yêu cầu của Đổng Thiết, vua Hùng sai các tướng tìm các đồ sắt đủ 50 trăm cân, truyền cho trăm thợ rèn để rèn thành ngựa sắt cao mười tám thước, có đủ năm tạng… Thần Vương nhảy lên ngựa sắt, cầm roi sắt, đội nón sắt, thét vang như sấm chớp, rằng:
– Ta là Thần tướng, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Ngựa sắt nhảy mạnh, bay lên không mà phi, lập tức tới nơi Vua ngự. Thần vương cầm roi sắt chỉ huy tiên phong, lệnh khiến các quan hành quân tiếp ứng, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt, đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên núi... Còn trong tác phẩm Phong Thần diễn nghĩa kể, thừa tướng của nhà Chu là Lã Vọng Khương Tử Nha, người Đông Hải, đã phò giúp Chu Vũ Vương đánh Trụ diệt Ân. Khương Tử Nha cưỡi con kỳ thú là Tứ bất tướng. Con thú này sống từ thủa khai thiên lập địa đến nay. Hình dáng đầu kỳ lân, có sừng, đuôi hươu, vóc dáng như rồng. Có thơ rằng: Ðầu lân đuôi trại vóc như rồng Chân đạp hào quang thấu chín trùng Bốn biển mười châu đi nhất khắc Ba non năm núi đến như không.
So sánh ở đây thì thấy con Ngựa sắt của Thánh Dóng là con Tứ bất tướng của Lã Vọng.
“Tứ bất tướng” trước cửa đền Thượng Sóc Sơn.
Roi sắt
Trước đây các bản dịch thần tích nói rằng Phù Đổng Thiên vương dùng cây gậy sắt. Nhưng đúng chữ gốc thì đây là “Thiết tiên”, tức là cây Roi sắt. Cây roi này dài mười thước.
Vũ khí tấn công của Khương thừa tướng là cây Roi đánh thần (Đả thần tiên), có thể đánh cho thần tiên hồn rời khỏi phách, mà bay lên đàn Phong Thần. Có thể thấy Roi đả thần và Thiết tiên của Phù Đổng là một.
Cùng với vũ khí này là tục chém tướng Ân trong lễ hội đền Sóc. Cũng như trong hội làng Phù Đổng, tướng Ân được thể hiện là các cô gái trẻ được trang điểm và được rước bằng kiệu. Hội Phù Đổng có bài hát Ải Lào:
Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương Ân sai hai tám tướng cường nữ Nhung Xâm cương cậy thế khoe hùng Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh.
Ở Sóc Sơn sau khi làm động tác chém tướng các cô gái được cõng chạy về làng. Chém tướng cũng là một lễ tế trong ngày Khương Thái Công đăng đàn Phong Thần, đã chém 2 tướng Ân làm lễ là Phi Liêm và Ác Lai.
Tướng Ân trong hội đền Sóc (Ảnh: internet).
Áo giáp
Ngọc phả Hùng Vương cho biết Đổng Thiết chỉ yêu cầu nhà vua rèn một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây roi sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước. Còn không có áo giáp bằng sắt. Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính Ngọ, Đổng Thiết cười vang một tiếng, duỗi tay vươn vai, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp, thân mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc.
Đồ mặc của Phù Đổng là một chiếc áo hoa lau, có hàng ngàn bông hoa. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng roi sắt đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch quân Ân.Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa, thần vương cởi bỏ bộ áo hoa lau, cưỡi ngựa bay lên không mà bay đi…
Khương Thái Công có vật hộ thân là Hạnh Hoàng Kỳ, hay lá cờ của hành màu Vàng (trong Ngũ hành). Lá cờ này khi phất lên thì hàng ngàn bông hoa sen bay ra, ngăn cản tất cả binh khí của quân giặc đánh đến.
Hạnh Hoàng Kỳ như vậy chính là bộ áo hoa lau (hoa tre) của Phù Đổng hay cành tre đằng ngà được Thánh Dóng nhổ lên quét sạch giặc Ân. Trong lễ hội Dóng ở Sóc Sơn hiện còn tục ban lộc hoa tre. Hoa tre được làm bằng những thanh tre dài, đầu được vót thành xơ và nhuộm màu. Sau lễ dâng hoa, tre được tung ra trước sân đền cho người dự hội lấy để cầu may. Đây là tái hiện lại hình ảnh Phù Đổng cởi bỏ bộ áo “hoa lau” trước khi bay về trời ở núi Sóc.
Tiêu diệt Trụ Vương xong, Khương Tử Nha
về Tây Kỳ, lập đàn Phong Thần, chém những tên gian thần của triều Ân để
tế lễ, rồi phong cho các tướng lĩnh tử trận của cả hai bên thành các vị
thần. Tín ngưỡng thờ thần của Trung Hoa bắt đầu trở nên chính thống từ
đó. Ngọc phả Hùng Vương kể:Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa, thần vương cởi bỏ bộ áo
hoa lau, cưỡi ngựa bay lên không mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân
ngựa in trên lèn đá. Núi Sóc Sơn chính là đỉnh Phong Thần của nhà Chu. Núi có tên Vệ
Linh cũng hàm nghĩa này. Đây là nơi Khương Tử Nha đã đăng đàn trảm tướng
phong thần, khởi đầu tín ngưỡng thờ thần cho cả thiên hạ Trung Hoa. Thôn Yên Tràng ở chân núi Vệ Linh còn có tục diễn cảnh chém 3 tướng Ân của Phù Đổng trước khi bay về trời.
Một cách kể khác về việc phong bách thần, đặt bách tính được kể trong đoạn:Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất
phân cõi, lập các bộ Sơn tinh Thuỷ tinh, định làm các tộc, đổi làm trăm
họ, đặt ra chức vụ trăm quan, phong tên cho trăm thần, phân chia đầu
núi góc biển, hùng cứ mỗi phương. 50 tên tộc trấn ở các đầu núi, cửa khe
non ngàn, cùng gọi là quan lang, phiên thần, thổ tù mà truyền dẫn. 50
tên tộc trấn ở các góc biển, vực suối cửa sông, các thần linh trên nước,
tiện để bảo hộ dân sinh, giúp phù tông xã. Dựng hầu lập bình phong,
chia nước thành 15 bộ đất đai, xác định cương giới. Tất cả đều có người
trưởng phụ tá. Người chủ gọi là Bô (bố), bố gọi là Trá (cha), con trai
gọi là Côn (con). Nam nữ theo phụ giúp, khi đó đều là những người tài
giỏi. Hậu thế đổi thành quan lang, phiên thần, thổ tù phụ đạo. Các họ
tông của các công thần khai quốc được cha truyền con nối, vạn đời coi
giữ Nam Bang. Còn các nhánh tông phái của bộ chủ Hùng Vương đời đời trị
nước, giữ mãi phương Nam. Nhà bia bát giác đền Thượng ở Sóc Sơn.
Hồi 8. Phong hầu kiến địa
Chu Vũ Vương lên ngôi Thiên tử, đặt tên
trăm họ, phong cho các anh em của mình, các vị khai quốc công thần các
vùng đất đai phụ thuộc, phân chia chư hầu trấn giữ các nơi, sau thành
các nước như Lỗ, Yên, Tề, Tấn, Tần, Ngô, Sở, … Ngọc phả Hùng Vương kể:Vua nói: Triều đình lòng kính cầu khẩn, trên đàn thành tâm được cảm
ứng, thần đến từ phương Tây bày cách, mới biết lão Phật tiên ông hiển
ứng giáng đàn giúp nước. Hôm nay lệnh các quan bái hạ. Trẫm lập một ngôi
chùa tên là Từ Sơn Tuyên Quang Hoà Thượng Vạn Đức Thiền Sư. Ban bố cho
trăm quan thường xuyên cầu khấn, cầu Phật ứng cho.Trăm trai trăm tên. Con trưởng tên tục là Hùng Lân, sau đổi là Hùng
Quốc Vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái
Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ
Lang, Cấp Lang, Yêu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang,
Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Đường Lang, Kiều
Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hạn Lang, Khoán Lang, Trị Lang, Nhiễu Lang, Lý
Lang, Trâm Lang, Tróc Lang, Sát Lang, Lãng Lang, Sái Lang, Chiểu Lang,
Kiềm Lang, Trường Lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Siêm Lang, Triệu Lang, Ích
Lang, những người trên theo cha về biển.Hương Lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang,
Tịnh Lang, Dị Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế Lang, Mã Lang, Thiệu Lang,
Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Kỹ
Lang, Thỏa Lang, Phái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang,
Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào Lang,
Nguyệt Lang, Sâm Lang, Thập Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải
Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Tổ
Lang, ? Lang, gồm những người theo mẹ lên núi.Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, thành người chủ ở các phương,
thông minh mẫn tiệp, trí dũng kiêm toàn, tài lạ đẹp đẽ, lòng hiếu mạnh
mẽ, sức thần mắt rồng, thiên tư như mặt trời. Anh em đều có tài lớn,
giúp nước ở chính triều đường, định vị thứ đứng đầu trăm quan. Phù điêu những người con của Âu Cơ ở chùa Hoa Long. Vua cha bèn dựng hầu lập bình phong,
chia nước làm 15 bộ, xác định cương giới, các đầu núi góc biển, cử ra
trăm quan trấn thủ, gìn giữ các phương. Một là Sơn Tây, hai là Sơn Bắc,
ba là Sơn Nam, bốn là Hải Dương, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu, bảy
là Bố Chính, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hóa, mười một
là Tuyên Quang, mười hai là Lạng Sơn Cao Bằng, mười ba là Quảng Đông
Quảng Tây, mười bốn là núi Ngũ Lĩnh Vân Nam, mười lăm là Chiêm Thành. Bộ
chủ các xứ. Nước 15 bộ, là Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt
Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Trinh,
Nhật Nam, Tân Hưng, Cửu Đức, Văn Lang.Vua mới phân định các xứ, cai quản vạn dân. Khi đó lệnh cho anh em
trăm trai có tài thần báu quý, cai quản rõ ràng các nơi. Trăm nơi núi
sông một mối, xe sách quy mô chế độ đồng nhất, bốn biển một nhà, xưng
thần phụ thuộc. Ơn hiếu nghĩa đức, sáng lòng nhân, trí tuệ, xuất thánh
sinh hiền, không gian không ác, giúp đỡ mà trị, lấy đạo làm sáng, lấy
giáo hóa làm đẹp. Vạn dân hân hoan, trăm họ ca hát, thiên hạ thái bình.
Vua quân đổi đức, trị nước hưng thịnh, triều đình chuyên chính, dân theo
cổ, lễ phục, tạo nhạc, mưa thuận gió hòa, nông tang lạc nghiệp. Nước có
vua trưởng, là phúc của xã tắc. Dân coi triều đình là cha mẹ. Triều
đình coi dân như con đỏ. Địa lợi nhân hòa, binh mạnh nước giàu, không
động đao thương. Thiên hạ cùng hưởng niềm vui thái bình. Vua tôi cùng
tốt, làm theo điều nghĩa, để tới vạn đời. Thế nước tăng thịnh, thật là
to lớn, khó gì so bằng. Sau này có cung phi ở các bộ, sinh thêm hơn năm
mươi người trai gái, tới lúc trưởng thành đều có tư chất tốt đẹp.Sau đó Long Quân nhường ngôi, chọn con trưởng Thái tử tên Hùng Lân
Lang, đổi thành Hùng Quốc Vương, nối ngôi thay triều, ra quản vạn dân,
ngự chính ở cung kiền tại núi Nghĩa Lĩnh. Nay Hùng Vương xe sách thống
nhất cai quản thiên hạ. Còn các người em vua 99 người…Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc
gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế được rũ áo khoanh tay, hoà mục
trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở
nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư,
không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định,
vượt hơn các vua trước, dẫu là thời thái cổ cũng không bằng. Hưởng ngôi
trị nước dài lâu. Đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Đó
là Thuỷ tổ của Bách Việt.
Câu đối ở đình Bảo Đà ở Dữu Lâu, Việt Trì:
數千年王佐始終父子君臣開拯點
十五部天分草埜山河日月共長存Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểmThập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch:Mấy ngàn năm phụ đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúpMười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.
Văn Vương mất, con là Vũ Vương nối nghiệp. Với sự giúp đỡ của Khương
Tử Nha, Vũ Vương đã hiệu triệu 800 chư hầu, hẹn nhau hội quân ở Mạnh
Tân, tiến đánh Trụ Vương. Ngọc phả Hùng Vương kể:Sứ giả đến làng Phù Đổng, huyện Tiên Du. Làng ấy có người nhà giàu
tuổi đã 79. Trước nhà có mảnh vườn trồng các loại trà hoa. Bà lão cũng
đã 59 tuổi. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa
hái chè, thấy một dấu chân to lớn. Bà lấy làm lạ, bèn gọi chồng đến, quả
nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Trưởng ông bảo vợ bước chân trái
dẫm vào đó. Tự nhiên lúc đó khí trời của thần cảm ứng. Bà lão thấy cảm
động trong người, mắt hoa, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp
Tí đầy tháng bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Trưởng ông
qua đời lúc 80 tuổi. Chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con. Lên ba
tuổi đặt tên là Đổng Thiết, ăn uống lớn phổng, nhưng không biết nói
cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong võng, mẹ cậu nghe sứ giả đi tìm
người có đại tài dẹp loạn. Bà mẹ nói vui với sứ giả rằng:– Lão sáu mươi tuổi mới sinh được một đứa con trai. Nay đã ba tuổi,
chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan
tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ.Sứ giả đi qua. bỗng nhiên Đổng Thiệt ngồi dậy, mở miệng nói:– Xin mẹ gọi sứ giả quay lại, con có việc cần nói. Mong mẹ đón lại sử giả về đây.Thần vương nói với sứ giả rằng:– Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp
loạn cứu dân. Ngươi về triều tâu với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10
thước, một cây roi sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước,
đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta để đánh giặc Ân. Vua không phải lo gì nữa!Sứ giả nghe lời nói của Đổng Thiết, trở về chính điện ở núi Nghĩa
Lĩnh tâu Vua mọi việc. Vua triệu tập quần thần trăm quan để bàn. Triều
đình liền can ngăn rằng:– Triều đình hiện nay oai trời rộng lớn, tướng mạnh tướng nhiều. Dù
giặc Ân xâm chiếm phương Nam, cũng đã có người can đảm đối đầu. Huống hồ
đứa trẻ ba tuổi sao có thể đánh giặc được. Vả lại việc binh là việc
quốc gia đại sự, liên quan đến an nguy của hoàng gia, chớ nên xem nhẹ.
Xin bệ hạ thận trọng lựa chọn người có đại tài, cử làm đại tướng. Không
nên chỉ nghe lời nói bên ngoài mà không thấy tận mắt vậy.Vua nói:– Trẫm theo mệnh trời, trị nước yêu dân, tin việc thần nhân trước
đây đã báo ứng. Đích thực là Tiền thánh Đế quân đã hiển linh về báo để
giúp nước. Trẫm tin như lời đó thật không phải là sai, không nên nghi
ngờ.Vua sai các tướng tìm các đồ sắt đủ 50 trăm cân, truyền cho trăm thợ
rèn để rèn thành ngựa sắt cao mười tám thước, có đủ năm tạng, roi sắt
dài mười thước, nón sắt rộng ba thước. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng
năm Bính Dần Vua sai quan Tiết chế dẫn 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi
sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Đổng Thiết cười rằng:Vua theo đúng hẹn,Vận nước lâu bền.Quân giặc phải tan,Một ngày giúp nước,Thiên cổ danh vang.Rồi Đổng Thiết nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: “Tính con hay
ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả”. Dân làng nghe thế nhà nhà
đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát cậu bé đã ăn xong để lên đường đi
lập công giúp nước, đền đáp công ơn của cha mẹ, làng xóm và ơn Vua.Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính Ngọ, Đổng Thiết cười vang một
tiếng, duỗi tay vươn vai, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp,
thân mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân
đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc. Đổng Thiết lạy tạ mẹ rằng:– Mẹ là bậc thánh trên trời. Con là Thần vương. Một ngày lập công to lớn, vạn năm hương lửa vô cùng!Thần Vương nhảy lên ngựa sắt, cầm roi sắt, đội nón sắt, thét vang như sấm chớp, rằng:– Ta là Thần tướng, vâng sắc chỉ xuống giúp nước! Phù Đổng Thiên vương ở đây cũng là Khương Tử Nha, người cầm đầu quân đội nhà Chu và các chư hầu, xông pha diệt Trụ. Phù Đổng Thiên Vương và các thần tướng ở đền Thượng núi Sóc.
Hồi 6. Phá Ân diệt Trụ
Cuộc chiến giữa Trụ Vương và Vũ Vương diễn ra rất ác liệt. Phía quân
Chu được nhiều thần linh đến trợ giúp. Sau nhiều trận đánh, quân nhà Chu
đã chiếm được Triều Ca. Trụ Vương lên Lộc Đài phóng hỏa tự vẫn. Ngọc phả Hùng Vương kể:Ngựa sắt nhảy mạnh, bay lên không mà phi, lập tức tới nơi Vua ngự.
Thần vương cầm roi sắt chỉ huy tiên phong, lệnh khiến các quan hành quân
tiếp ứng, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt,
đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên núi. Quân Ân thua to tan chạy.
Thạch Linh thần tướng bị bắt sống rồi chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa
diệt hết, nhưng roi sắt đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch quân Ân. Tương truyền con ngựa đá của Thạch Linh thần tướng bị chém rơi đầu,
nay còn dấu tích ở thôn Cựu Tự, núi Chu Sơn tại Quế Võ, Bắc Ninh, với
hình một con rồng có cánh (Phi Liêm) bằng đá lớn. Tượng Phi Liêm bằng đá ở Chu Sơn. Truyện Giếng Việt trong Lĩnh Nam chích quái kể:Giếng Việt ở núi Trâu Sơn, quận Vũ Ninh; đời Hùng Vương thứ ba, Ân
Vương cử binh Nam xâm, đóng quân ở núi Trâu Sơn; Hùng Vương cầu Long
quân giúp, Long quân bao tìm khắp thiên hạ, nếu được người kỳ tài thì
dẹp được giặc; đến kỳ cầu được Đổng Thiên Vương cỡi ngựa sắt đi đánh,
tướng sĩ nhà Ân đều tan vỡ. Ân Vương chết ở dưới núi, làm Địa Phủ Quân;
dân lập đền thờ, bốn mùa cúng tế nhưng lâu năm suy dần bỏ thành chùa
hoang. Trụ Vương chết, được phong làm Vua của Địa phủ. Rất có thể tục cúng
cô hồn tháng 7, khi Diêm vương mở Quỷ Môn Quan cho các cô hồn đi ăn đồ
lễ, chính là bắt đầu từ cuộc chiến Chu – Thương này. Đây là ngày lễ
tưởng niệm đến những người đã mất trong cuộc chiến, mà không được siêu
thoát hay phong thần. Có lẽ chính tháng 7 là tháng mà Trụ Vương đã chết
cháy ở Lộc Đài.
Đoạn khác trong Truyện giếng Việt:… hòn ngọc Long Tụy, nói đó là ngọc châu, từ thuở Trời Đất mới khai
tịch, đã có một cặp Trống Mái từ đời Hoàng Đế trải đến đời Ân truyền làm
thế bảo; trong trận đánh Trâu Sơn, Ân Vương đeo nó mà chết. Vua Ân dùng ngọc rồng, đối lập hình ảnh với Văn Vương phượng gáy
Kỳ Sơn. Ân Thương và nhà Chu là hình tượng của 2 dòng Tiên – Rồng, Âu Cơ
– Lạc Long của huyền sử Việt.
Một cách kể khác trong Ngọc phả Hùng Vương là
sự kiện Âu Cơ sinh trăm trứng, có Tứ đại thiên vương, Bát bộ kim cương
đến phù giúp. Quá trình “mang nặng đẻ đau” trăm người con trai này là
cuộc chiến diệt Trụ, lập ra thiên hạ trăm chư hầu.Bấy giờ nàng Âu Cơ là chính phi, vào năm Nhâm Thân tháng Giêng ngày 4
có thai, điềm rồng đẹp ứng, mây lành năm sắc, hương trời đầy phòng.
Trong 3 năm 3 tháng 10 ngày ở tại Ngũ Lĩnh. Trong cung điện hàng ngày
thường có mây lành năm sắc, ánh rồng sáng lạn. Tới đầy tuần sinh nở, vào
năm Canh Ngọ ngày 5 tháng 12 mặt trời chiếu đúng giờ Ngọ, cái thai
trong bụng Âu Cơ chuyển động, mây rồng đầy nhà, ánh sáng loé lên. Trong
trướng, hoàng phi sinh ra một bọc trăm trứng, trong như ngọc châu, hương
lạ thơm nức. Sơ sinh ở núi Nghĩa Lĩnh, đất tổ Phong Thứu, dưới lọng
ngọc đầu núi bên đầm sen.Hiền Vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường, là điều lạ
của quốc gia trước nay trong thiên hạ. Vua bèn triệu hội đồng bách quan
văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ Ngọ hôm ấy ở giữa thành nội
Kính Thiên ba tiếng thiêng vang lên rung trời chuyển đất, núi sông cây
cỏ muôn vật đều kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế
giới. Muôn chim bay chầu trên các lâu đài điện các. Dưới núi làn nước
tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm đội gió
mưa về chầu. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho
bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện
Kính Thiên, đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên Thượng đế, Tứ phủ
vạn linh.Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay
đến hội ở sân Kính Long điện ngọc. Rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ
lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm
bào xanh, lưng thắt đai ngọc khăn rồng, chân đi hài sắt, nói cười đều
loé hào quang lưỡi lửa, cùng cầm long đao, lệnh rằng: Ngọc Hoàng thượng
đế xuống sắc cho Nam Miên, Hiền Vương quản nước, bọc rồng trăm trứng nở
ra trăm trai trị nước. Trời lệnh sai các đại thần vương phù giúp bảo hộ.
Vậy ban sắc này.Hiền vương mới nhận long bài, truyền các quan văn võ ngước lên trời vái vọng, rồi dập đầu lạy tạ.Thần vương nói: Bào ngọc trăm trứng, thần oai rạng thiêng, điềm rồng
giáng sinh. Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt bào ngọc lên chiếc mâm vàng
đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, tức là chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà
Thượng ở ngọn Thứu Lĩnh, đặt ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu
hầu, đèn hương không ngớt. Bào này sẽ sinh ra trăm trai thần tướng. Hiền
Vương hãy thành tâm cầu trời, tới tháng Giêng bào sẽ nở. Nói xong Tứ
đại thần vương lại làm gió mưa mây sấm, bay lên không biến hóa.Hiền vương thành tâm cầu trời. Thế là vào ngày rằm tháng giêng, mây
lành bay phủ khắp đất trời, núi sông rừng biển, nở ra trăm con
trai. Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật
lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân
cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng.Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu
may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Một ngày ba lần làm các trò vui
như du ngoạn hoa lá hồ sen, được một trăm ngày. Đầy trăm ngày vào ngày
20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn:Trời sinh bậc thánhTrị nước sinh vuaThanh bình bốn biểnThiên hạ vững yên.Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng. Hiền Vương đến ngự
thấy các vị thần tướng nhà trời đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp
sắt, chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ, tướng mạo sang quý
sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả khí, tay cầm thần
kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu đối
nhau. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi lên, bay vây
quanh núi Nghĩa Lĩnh, trên điện núi non mất hình, sông suối tràn dâng
sóng vỗ, không ai biết được chuyện gì xẩy ra. Sau ba giờ bầu trời lại
tạnh sáng. Đó là 8 vị tướng xưng là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của
Chư Phật Thượng Đế sai đến thăm nom 100 vị vương tử, nay đã trưởng thành
các bậc thánh thần đôn hậu minh mẫn. Tám tướng phụng mệnh đưa các hoàng
tử đến lạy mừng vua cha, trị bình trong nước. Trời ban cho Hiền vương
một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một cặp ngọc trắng, một
thanh kiếm thần, một quyển Sách trời, một chiếc thước ngọc, đặt trên mâm
vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền Vương vâng mệnh vào điện
đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ứng ban để trị yên thiên hạ.Hiền Vương thấy 100 con trai bỗng nhiên trở nên cao lớn, thân cao
bảy thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng hai bên
phải trái, hầu triều lạy mừng vua cha. Hiền Vương nhận việc của Tám
tướng tấu về, một trận mưa gió chấn động, sấm chớp sáng lòa, trên không
biến hóa khải hoàn về Trời. Chùa Thiên Quang ở Nghĩa Lĩnh, nơi thai giữ bào ngọc trăm trứng.
Khởi đầu sự nghiệp Cơ Xương Văn Vương đã
hết lòng chiêu mộ hiền tài. Văn Vương đã đích thân tìm đến Lã Vọng, là
một ông lão ngoài 80 tuổi, ngồi câu cá trên Bàn Thạch ở sông Vị. Văn
Vương đón Lã Vọng về lập làm tể tướng, tức Khương Tử Nha. Ngọc phả Hùng Vương kể:Hiền vương phán rằng:– Chính sự lớn của triều đình cần có người anh tài. Trẫm vâng mệnh
Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân, theo mệnh trời sinh được
trăm con trai. Trẫm cùng trăm quan thành tâm thiết lập đàn chay, kính
cẩn cầu khấn tâu lên Hoàng Thiên, đấng ngự hội tụ của vạn linh, để đặt
định trăm danh hiệu.
Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn vừa xong, tự nhiên có cảm
ứng, phương Tây có khí thần lại, mây rồng ngũ sắc, núi sông sáng rạng.
Khi đó, có một cụ già tướng mạo trượng phu, râu tóc bạc phơ, dáng điệu
tiên ông, đầu đội mũ trời gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu, chân đi
giày cỏ, tay cầm gậy tre, ra chơi ở bến sông Bạch Hạc Việt Trì, tại chùa
Hoa Long. Ông già rửa chân bên sông, trên tảng đá phẳng trên con sông
gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có quan trong triều là Tướng quân nguyên soái
tiết chế trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu ở bên
sông Việt Trì. Quan Nguyên suý trông thấy ông tiên đang xem phong thủy,
mặt hướng nhìn các sông Bạch Hạc, Hoàng Hà, Manh Hà, chân đạp lên tảng
đá hình lưng rùa. Triều quan sai sứ giả nghênh đón tiên ông lên lầu hỏi
chuyện với Nguyên soái. Quan đem hết sự thể bộc bạch chân tình, mở tiệc
khoản đãi rồi mời ông về cung điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào
tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung, dùng đại lễ, mở tiệc chúc
mừng. Vua hỏi cụ già rằng:– Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện, nhờ cụ chỉ giáo cho.Tiên ông ha hả cười vang. Vua vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông:– Nước sinh được trăm con trai, có trí tuệ cùng tài như nhau, cho
nên khó đặt định danh hiệu thần xếp thứ tự luận anh em. Kính nhờ Tiên
ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho.Cụ ông đáp:– Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại, xem hết trời đất, đi thăm thế giới, đến tận Nam Miên, thấy
phong cảnh đẹp. Vua nay muốnđặt tên cho trăm con trai. Ta có một quyển
sách thần có thể bói biết được tinh thần âm dương, gọi tên các phép
tiên. Vua nói: Nước đã có thành tâm cầu đảo, đúng là cầu tất ứng. Tiên ông nói: Lão thành tâm bốc một quẻ trong Thiên thư xem tới
trời định thế nào. Trước là để xác lập vương tử, cùng với tên gọi cho
trăm trai. Xem tướng trăm trai thì Vua sẽ cử được người tài lập làm con
trưởng, phân định thứ bậc anh em. Tiên ông lấy bút viết ra, đặt tên cho
các thần tướng, đặt lên chiếc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em,
trăm trai đến hội ở chính điện. Mọi người đồng thanh cần phải có một
huynh trưởng đứng đầu. Một người được gọi tên được lập làm Thái tử nối
ngôi vua. Còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu
được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt việc đặt tên đã xong, tự nhiên có một làn mây xanh bay đến trên không trung, Tiên ông biến hoá bay về Thượng giới. Vua nói: Triều đình lòng kính cầu khẩn, trên đàn thành tâm được
cảm ứng, thần đến từ phương Tây bày cách, mới biết lão Phật tiên ông
hiển ứng giáng đàn giúp nước. Hôm nay lệnh các quan bái hạ. Trẫm lập một
ngôi chùa tên là Từ Sơn Tuyên Quang Hoà Thượng Vạn Đức Thiền Sư. Ban bố
cho trăm quan thường xuyên cầu khấn, cầu Phật ứng cho. Ông lão cầm gậy trúc, đứng trên bàn đá bên sông Nhị, dùng Thiên thư
(sách trời) để phân định thứ bậc họ Hùng, rõ ràng là chuyện của Lã Vọng
câu cá ở Vị Thủy. Chùa Hoa Long ở ngã ba sông Việt Trì.
Hồi 4. Văn Thái sư đánh Tây Kỳ
Sau khi Cơ Xương đánh chiếm nước Sùng của Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ, Trụ
Vương liên tiếp sai quân tiến đánh Tây Kỳ. Cầm đầu quân đội của Trụ
Vương là Văn Thái sư, là một người tài giỏi, có nhiều phép thuật. Ngọc phả Hùng Vương kể:Thời Việp Vương, người giàu vật nhiều nên mới có sàm thần tấu lời,
không tin bà mo, đùa lễ giả với trời. Thời này không có phong tục kính
lễ. Vua Ân muốn xâm lăng đất nước. Vào năm Giáp Tí bỗng thấy biên giới
phía Bắc có thư gửi cấp báo. Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi
binh từ phía Bắc tiến sang, giáo giáp kín trời, tinh kỳ rợp đất. Quả
đúng như lời bà mo đã nói. Tướng giặc Ân trong cách diễn nghĩa của người Việt là Thạch Linh
thần tướng. Sau đó Phù Đổng Thiên Vương giáng xuất, đánh nhau với Thạch
Linh thần tướng ở vùng Yên Việt. Đền thờ Thạch Linh thần tướng ở Hạ Lát, Tiên Sơn, Việt Yên, Bắc Giang (Ảnh: Nguyễn Huân).
Bách Việt trùng cửu – nguồn https://bahviet18.com/2019/08/15/phong-than-viet-dien-nghia/ Phong Thần diễn nghĩa kể lại câu chuyện
lập quốc của nhà Chu, từ lúc Trụ Vương suy đồi, Văn Vương cầu Khương Tử
Nha, phò Vũ Vương hội chư hầu tiến đánh Triều Ca, dựng nên thiên hạ
nhà Chu, phong hầu phong thần, đặt ra bách tính. Trong huyền sử
Việt câu chuyện Phong Thần này được “diễn nghĩa” theo một góc nhìn
khác, mà người Việt ai cũng thuộc nằm lòng, bởi đó là các truyền thuyết
về thời Hùng Vương dựng nước Văn Lang, được kể chi tiết trong Ngọc phả Hùng Vương cùng các di tích hiện còn ở Việt Nam.
Hồi 1. Trụ Vương – Đát Kỷ
Trụ Vương là vị vua cuối cùng của nhà Ân
Thương. Vua Trụ coi khinh quỷ thần, chọc ghẹo cả Nữ Oa, ham mê tửu sắc,
bị con hồ ly tinh Đát Kỷ mê hoặc, giết hại hiền thần, dẫn đến triều
chính rối loạn. Mệnh của nhà Ân Thương từ Thành Thang coi như sắp hết. Ngọc phả Hùng Vương kể:Quốc Vương chưa tỏ sự lý của trời đất nên trong cung còn nhiều
thuyết hoang đường, lấy đó làm cách cảm. Quần thần tấu thỉnh lên bệ hạ
nên dùng một kế, chế lập ra một đàn tràng. Vua nghe theo lời tâu. Có một
bà mo xưng có tài như thần. Vua sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế riêng, dùng các lễ dối, voi trắng
không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Trời. Vua
bảo triều thần:– Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong không bằng lòng, xem đến các đồ
lễ trên đàn thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai
ương để cảnh báo vua không có đức.Vương mới nghiệm biết trời đất báo ứng ngay trước mắt. Đến năm Thân
tháng Thân, thần khí âm dương rơi rụng. Mưa gió không điều hòa. Khí thời
không chính. Đức của người làm vua không được thuần. Vua mới cho sứ đưa bà mo đến bảo: – Ngươi biết dò xét cơ trời. Nay trong nước có điềm chẳng lành.
Ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào, về báo cho Trẫm
biết.Bà mo bèn làm phép, trong khoảng ba canh, tự nằm mộng đến trước cửa khuyết Ngọc Hoàng, quỳ tâu rằng: – Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình. Nay trần thế đang có biến. Xin cho biết nguyên do như thế nào? Ngọc Hoàng phán rằng:– Ngươi mau trở về báo cho Vua biết. Lưới trời lồng lộng, thưa mà
không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc, có cầu có nguyện tất được tòng tâm.
Vua nay tự kiêu ngoa, truyền làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt,
không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau tất sẽ có nạn
giặc lớn! Có thể thấy Hùng Vương ở đây là Trụ Vương. Bà mo là con yêu Đát Kỷ. Đã bày đặt ra những chuyện lừa dối cả Hoàng Thiên.
Mâu thuẫn giữa hai dòng Thương và Chu còn được kể đến trong cuộc chia tay Lạc Long – Âu Cơ trong huyền sử Việt.Khi đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:– Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau,
chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50
con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm
Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi
biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Và trong đoạn kể về Hùng Vương cuối cùng:
Từ đó Tuyền Vương bỏ bễ không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc
làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa
tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục…
Hồi 2. Phượng gáy non Kỳ
Cơ Xương Văn Vương là Tây Bá Hầu, là vị
hầu tước đứng đầu miền Tây của nhà Ân, cũng gọi là xứ Tây Kỳ. Tương
truyền khi Văn Vương sinh ra có điềm phượng hoàng bay đến đậu trên núi
Kỳ Sơn mà gáy, báo hiệu sự ra đời của bậc thiên tử, khởi đầu một triều
đại mới thay cho nhà Ân đã tận số. Ngọc phả Hùng Vương kể:Khi ấy có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ, là một thiếu nữ hiền đức,
sống ở quê mẹ tại huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc của Giao Chỉ. Một hôm
nàng Âu Cơ đi chơi ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang.
Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, tư chất kiều diễm, rất vừa ý, bèn
lấy làm vợ, lập làm chính phi hoàng hậu. Thề rồi tới khi Kinh Dương
Vương hai trăm năm bảy tuổi, ở ngôi hai trăm năm mươi năm, thì phong Lạc
Long Quân lên nối ngôi chính thống ra ở tại núi Nghĩa Lĩnh, kinh thành
đô ở núi Phong, triều đại quản lý việc nước nhà, lấy đức cai quản nhân
dân. Mẹ Âu Cơ là dòng tiên, biểu tượng là chim phượng, là hình ảnh thể
hiện trên mặt trống đồng, văn vật đặc trưng cho người Việt ở thời kỳ
này. Âu Cơ lên núi lập nước Văn Lang, đô đóng Phong Châu, tức là Cơ
Xương Văn Vương. Đền Hiền Lương ở Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi Âu Cơ bay về trời (Ảnh: Nguyễn Huân).
Phần dịch Ngọc phả Hùng Vương của GS Ngô Đức Thọ về thời Thục Vương (đoạn cuối):
Thục Vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng Vương) từ xa nghe tin Tuyền Vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền Vương để xâm chiếm nước Nam. Vua (Tuyền Vương) binh hùng tướng mạnh, Thục Vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục Vương: “Ta có sức thần, Thục Vương không sợ sao?” Từ đó Tuyền Vương bỏ bễ không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục. Hùng Vương bèn đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Hùng Vương lấy mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? Rùa vàng đáp: – Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong. Tuyền Vương đem rùa vàng đến một ngôi quán gần bên núi Thất Diệu giả làm khách đi đường vào ngủ trọ. Đêm ấy tinh quỷ ở bên ngoài gọi mở cửa. Rùa vàng hét to một tiếng, quỷ không vào được, đến khoảng gà gáy quỷ binh tan chạy cả. Rùa vàng bảo vua theo vết chân quỷ mà đuổi, đến núi Thất Diệu thì tinh khí của chúng bị thu nhốt hết. Tuyền Vương sai đào núi lên, thu đựoc một cỗ nhạc khí cổ và mấy bộ xương người. Vương sai đốt huỷ, đổ tro xuống sông, đến khi ấy yêu khí của ma quỷ mới trừ hết. Từ đó việc đắp thành của Tuyền Vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Thục Vương mà dặn rằng: – Quốc gia yên nguy có số trời, nhung người cũng phải có phòng bị. Nếu thấy giặc đến thì dùng móng thiêng này làm cái lẫy nỏ mà bắn thì vương không có gì phải lo! Hùng Tuyền Vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng làm máy, đặt tên là “Linh hoa kim trảo thần nỗ”. Sau khi đã có nỏ thần, Hùng Tuyền Vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: “Thục Vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện” Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục Vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền Vương: – Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục Vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục Vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền Hoàng Đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lực như thế mới thật là cao! Tuyền Vương cho là phải. Rồi Tuyền Vương sai đưa thư nhường nước cho Thục Vương. Thục Vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền Vương nhân đó tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt. Thục An Vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền Vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đá trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng: – Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng Vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân. Đọc lời khấn xong, Thục Vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung Nghĩa hương (làng Trung Nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối. Thục An Vương kế nối trị nước được 50 năm thì xẩy ra việc nhà Tần lập các đạo quân gồm những dân phạm tội phải chạy trốn lưu vong, những người đi ở rể bị bán làm binh, sai Hiệu uý Đồ Thư làm tướng chỉ huy, sai Sử Lộc đào cừ chở lương thực, tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận; lấy Nhâm Ngao làm Thái thú quận Nam Hải, Triệu Đà làm lệnh doãn huyện Long Xuyên (Nay ở đình Phân Thuỷ huyện Hưng Yên có miếu thờ). Câu đối ở miếu: Niệm Nghĩa Lĩnh khai cương, cạnh nhĩ sổ lý thanh sơn, lưu cao trạch nhi thành đô hội.
Khai vật tế nhân, tưởng Việt thành thâu túc, thuỳ sử nhất hoằng bích thuỷ, tiện vãn vận dĩ khải hồng đồ. Rồi đó Nhâm Ngao, Triệu Đà thừa cơ gây hấn, đem quân sang xâm lược. Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du Bắc Giang giao chiến với An Vương. An Vương lấy nỏ thần ra bắn. Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biêt Thục có nỏ thần, không thể đối địch đựơc, bèn cho con là Trọng Thuỷ vào làm lính hầu (túc vệ) trong cung An vương. Rồi Trọng Thuỷ cầu hôn vương nữ Mỵ Châu. Trọng Thuỷ dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái lẫy khác. Sau đó Thuỷ về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh An Vương. An Vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh cờ vây, cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Triệu Đà vây áp đến nơi, An Vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An Vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất. Từ Triệu Vũ Đế (huý Đà) kế trị đến các triều Đinh Lê Lý Trần cho tới nay triều Lê ta đều chuẩn y việc phụng thờ ở cung miếu, chuẩn cho làng Trung Nghĩa thuộc bản xã theo đúng lệ cũ được hưởng tạo lệ, miễn trừ tô thuế binh dân cùng là các khoản sưu sai tạp dịch, giao cho dân bản xã phụng thờ cầu chúc cho mệnh mạch quốc gia trường tồn, lưu thơm muôn thủa. Ô hô! Thịnh thay!
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470), mùa xuân, tháng Ba, ngày tốt. Hàn lâm viện trực học sĩ NGUYỄN CỐ phụng soạn.
Ý kiến của Văn Nhân .
Ghi nhận vài điểm khác lạ chép trong Ngọc phả so với sử hiện lưu hành .
Hùng Vương bèn đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. , Thành đắp mãi không xong vì cứ bị đổ sau nhờ Giang sứ GiúpTừ đó việc đắp thành của Tuyền Vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Tuyền Vương , vua bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng làm máy, đặt tên là “Linh hoa kim trảo thần nỗ”.
Thục Vương là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng Vương , Nghe lời khuyên của Tản viên , Hùng Tuyền vương nhường ngôi và tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.
Thục vương ở ngôi 50 năm thì quân Tần đánh chiếm Lĩnh Nam lập các quận Nam hải Quế lâm và Tượng , Triệu đà tướng nhà Tần dẫn quân Tần đánh Thục vương nhưng thất bại vì Thục vương có nỏ thần , Triệu Đà bèn thực hiện diệu kế cầu thân kết thông gia và cho con là Trọng Thủy sang ở rể rồi lừa vợ là Mị châu tráo nỏ thần mà Hùng vương tặng cho Thục vương đem về cho cha . Triệu Đà bèn phát binh .
Quân Triệu Đà (huyện lệnh Long Xuyên nhà Tần không phải Triệu Đà vua Nam Việt) vây áp đến nơi, An Vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An Vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất.
Xin góp bàn Xét ra như tác gỉa Bách Việt Trùng cửu đã nhận xét : Theo nội dung ngọc phả thì Hùng Tuyền vương đắp Loa thành không phải là Thục Phán An Dương vương và Giang sứ tặng móng rùa cho Hùng vương chế thành nỏ thần không phải cho An dương vương . Sư việc đúng sai chỉ xin nêu ra không dám có ý kiến . Thục Vương là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng Vương như vậy Thục chỉ là 1 đời Hùng đúng như nhìn nhận của Sử thuyết Hùng Việt , rõ ràng ngọc phả đã viết khi Triệu Đà đánh bại và chiếm được nước của An Dương vương thì …Thế là cơ đồ họ Hùng mất. Sử thuyết Hùng Việt cho là Triệu Đà chính xác là quan úy tên Đà đã đánh chiếm rồi đem nước của Thục vương về cho Tần mở rộng lãnh thổ lập thêm 1 quận nữa cùng với 3 quận lĩnh nam đã chiếm trước , chuyện úy Đà chẳng dính dáng gì đến nước Nam Việt của Triệu Đà Triệu Vũ đế cả trăm năm sau như chép trong sử Việt hiện hành . 1 hướng suy đóan …Tần chiếm nước của Thục vương lập ra quận Tam Xuyên như vậy ở Lĩnh Nam Tần có 4 quận : Tượng – Quế Lâm – Nam Hải và Tam Xuyên , vì lí do tư liệu lỡ…viết qúa rõ ….Tần chiếm đất nhà Châu lập quận Tam Xuyên buộc người Tàu phảĩ uốn éo đẻ ra huyện Long xuyên cho Triệu Đà làm lệnh nhằm đánh lạc hướng phi tang cho mất tăm mất tích đất đai nhà Châu , Trong hàm quan chức nhà Tần quan úy đứng đầu cấp quận , Triệu là kí âm của chậu – chủ là chúa nên làm gì có việc triệu Đà làm quan lệnh trông coi 1 huyện .Đã gọi là úy Đà thì Long Xuyên buộc phải là quận không thể là huyện.
Do bỗng dưng mất hẳn 1 quận …lúng túng không biết lấy gì lấp vào đấy cho đầy nên mới có Chuyện nực cười cái Quận Tượng to như thế ít ra cũng rộng hơn cả nước Việt nam vậy mà bỗng dưng bốc hơi khiến những cái đầu lỗi lạc nhất của giới sử học Trung quốc vẫn đang đi tìm …kết qủa bao năm rồi mà vẫn cãi nhau về câu hỏi treo lơ lửng …liệu Giao chỉ xưa có phải là Tượng quận .