Hiển thị các bài đăng có nhãn Sử - địa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sử - địa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

Ngũ hành Dịch học và uẩn khúc lịch sử

 


Bản đồ Địa lý  Việt theo Ngũ Hành
Đi sâu tìm hiểu thì nhận ra  nhiều tên gọi của 5 hành  ứng dụng
 được đặt dựa trên đặc điểm tự nhiên Địa lý  Việt nam thể hiện bằng Việt ngữ .
Bài này dùng Chuẩn mực 5 Sắc  để từ đó đối chiếu xác định phương vị các ứng dụng còn lại của các  Hành vì 5 sắc Dịch học vẫn giữ nguyên như ban đầu  không thay đổi theo thời gian .
Đã có  1 số điều về địa lý trước nay không nhận ra :
Đơn cử ;
*Màu Đỏ -Hướng  Bắc là hướng Xích đạo – Nóng bửc    , bản thân từ xích  là màu Đỏ rồi , Bắc là biến âm của bức – nóng tiếng Việt nên cũng gọi là Viêm thiên – hành Hoả .
*Màu xanh – Hướng Đông bên Mục là Hướng mặt Trời mọc , chính động từ Mọc Việt ngữ đã sinh ra  hành Mộc là gỗ – cây ,  bên Mục là bên mặt Trời mọc ,cũng  sinh ra tay Mặt của con người .
*Hướng Tây là hướng mặt trời lặn , người Việt gọi là  ban Chiều , từ Chiều biến ra bên Chiêu nơi mặt Trời lặn , tay Chiêu là tay trái ngược lại với tay mặt bên Mục .
*Màu Đen  ;Trong nền địa lý tự nhiên Đông phương  riêng phía Nam hay phương Nam  được đặt tên dựa trên hành động của con người :
 Khi ta để tay Mặt ở bên Mục , tay Chiêu hay Siêu tức tay trái ở bên Chiêu – chiều thì hướng mắt nhìn gọi là hướng Nom – nhìn , văn minh Đông phương gọi là Quan phương , trong 4 phương trời là Huyền thiên .
Ngoài ra phương Nước màu Đen do quẻ Cấn trấn nhậm , Cấn là tượng của núi núi cũng là Non , non > nam > NAM .Trong Thái ngữ nước là nậm cũng là Nam .
Trục Bắc – Nam  hiện thời đã lộn ngược so với địa lý tự nhiên Việt Nam nguyên thủy tức căn cứ trên tính chất vật lý không phải phán bừa tự đặt sao cũng được , Phương Nam Huyền thiên màu Đen , lạnh lẽo mờ tối đã bị lộn ngược thành Bắc , sở dĩ gọi là lộn ngược vì chứng lý bản thân từ Bắc là biến âm của bức tức nóng thế cho nên  hợp lý ra thì Bắc – bức phải nằm  về phía  Xích đạo .
Việc đảo lộn Bắc Nam không phải là chuyện nhỏ trái lại nó khiến rất nhiều thông tin trong tư liệu cổ xưa về lịch sử và địa lý của Việt nam và Trung Hoa trở nên không chính xác . thông tin mang trong bản thân danh xưng không thể nhìn nhận chính xác được có thể khiến  Lịch sử Thiên hạ  đổi khác hoàn toàn tùy theo ý đồ chính trị của sử gia  .
KInh Thư có chép … vua Nghiêu mệnh Hy thúc trạch Nam Giao , do Bắc Nam lộn ngược nên ai đó mặc sức lếu  láo  …Nam Giao là vùng đất Giao chỉ ở phía Nam  Trung hoa , gọi là cố sức bẻ cong lịch sử vì nếu đúng theo  chính sử Trung quốc thì mãi tới thời Ân sau vua Nghiêu đến hàng mấy ngàn năm người Trung quộc mới vượt qua Hoàng Hà xuống phía Nam thử hỏi  vua Nghiêu vua Thuấn đã làm gì biết  đến đất Giao chỉ ở phương Nam  ?.
Sử thuyết Hùng Việt cho danh xưng Nam Giao nói đến trong sách Thượng thư thực ra là Nam Giao chỉ , Giao chỉ là tên gịi của  Việt Nam ngày nay , danh xưng Giao chỉ là Biến đổi của chỗ Giữa ,  sau Giao chỉ bộ có lúc gọi  là Giao châu , Nam Giao  tức Nam Giao chỉ chính là đất Lưỡng Quảng   ,Giao là Giữa còn  từ Quảng nghĩa là mở rộng chỉ  việc  khởi từ đất Giữa mà mở rộng lãnh thổ sang vùng đất phía Nam Giao chỉ  là đất lưỡng Quảng ngày nay . hướng  Nam đã dùng trong kinh Thư là hướng nguyên thủy của nền văn minh Dịch học dựa trên nền tảng tính chất vật lý tự nhiên  ngược với tên gọi tùy tiện vô căn cứ như Bắc – Nam ngày nay .
Trước Nam Gao từ NAM đã gắ́n liền với người Việt từ nguyên thủy.
Trong dòng sử dân gian Quốc tổ Hùng Vũ vương của người Việt có đạo hiệu là ‘Vua cha ngọc hoàng thượng đế ‘ , người đã kiến lập triều đại đầu tiên của tổ tiên người Việt đô ở núi Ngàn Hống nay thuộc Thanh Nghệ Tĩnh , vua đã cha truyền ngôi cho con trưởng là đế Nghi lập nên triều đại thứ 2 định đô ở vùng Tam giang nay thuộc Bắc bộ gọi là NAM triều . Đế Nghi đạo hiệu là ‘NAM triều thánh tổ ngọc hoàng thượng để ‘ , dân gian còn gọi là ‘Nam bang triệu tổ ,triệu ở đây là biến âm của chiếu – chúa tức thủ lãnh ,ngày nay gọi là nguyên thủ quốc gia .
Từ NAM gắn chặt với người Việt từ đấy 1 cách hết sức tự nhiên và liên tục qua các thời đại..
Đời Tần nước chia thành 36 quận đất NAM Giao trước gọi là quận NAM Hải và Quế Lâm , thực ra Lâm cũng chỉ là từ biến đổi của Nam – Lam mà thôi .
Tần bị diệt vua Lí Bôn – Lưu Bang dựng Đại Hưng quốc ban đầu định đô ở Đại Hưng thành tức Trường An , đời sau con cháu chia đôi ;phần ở lại Trường an được sử gọi là triều Hiếu , phần NỮA được Lữ Gia phò tá đời về thành Phiên Ngung hay Phiên Ngu gọi là triều NAM việt sau cũng gọi là nước NAM Việt , Lí Bôn thành Nam Việt đế hay Nam Việt vũ đế ..
Thời hậu khởi nghĩa Khăn Vàng Lí Phật tử đã phục sinh Nam Việt sử gọi là Hậu Lí NAM đế .sử Trung quốc gọi là Lưu Bị vua nước Tây Thục .
Thời nhà Đường sử cũ viết vua Đường đổi Giao châu thành An Nam , sử thuyết Hùng Việt phản bác việc này không đúng vì Giao châu do phủ tổng quản Giao châu sau đổi thành phủ đô đốc Giao châu quản lí là đất NỘI thuộc còn An Nam do phủ đô hộ quản lí tức đất tự trị ngoại thuộc.không thể nào đổi được .
Sử thuyết Hùng Việt cho là Giao châu vẫn là Giao châu sau nhà Đường đổi thành Tĩnh Hải quân còn An Nam do phủ đô hộ An Nam quản lí là đất hợp nhất của 2 đô hộ phủ Phong châu ở phía Tây và Hoan châu phía Nam Giao chỉ mà thành , điều này được chứng minh bởi vị quan cai quẩn đất Giao chỉ .luôn gánh song song 2 chức trách : Tĩnh hải quân tiết độ sứ và An Nam đô hộ ‘
Đất An Nam thời trung đại là nơi khởi nghĩa trước là Mai Hắc đế sau là Phùng Hưng Bố cái đại vương trở nên đất gốc của nước Nam Chiếu . Sang đời vua họ Phùng thứ 2 , An Nam thành lộ Lâm An của Phùng An con Phùng Hưng .thực ra Lâm cũng chỉ là từ biến đổi của chữ NAM mà ra . Lâm an cũng chính là đất Lâm Hà hay Nam hà xưa .
Thời sử Trung quốc gọi là Hoa Nam thập quốc thì quốc hiệu nước ta là Đại Việt và Đại Hưng mãi tới vua Minh Mang nhà Nguyễn từ NAM mới phục sinh trong quốc hiệu Đại NAM và gắn chặt với dân tộc ta cho tới hôm nay .

Anh hùng Trần bình Trọng khi sa cơ thất thế bị giặc Mông Thát bắt và dụ hàng đã thẳng thừng trả lời ‘Ta thà làm qủy nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc ‘ câu nói ấy đã thể hiện khí phách người họ Hùng đã và  sẽ còn vang vọng mãi mãi .

Thật đáng tiếc do quốc hiệu 2 thành phần Việt và Nam hiện nay nên mọi người thường gọi là nước Việt người Việt theo lối gọi tắt đôi khi quên bẵng đi tên gọi nước NAM người NAM  gắn bó ngàn đời .


Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

Vài điều tưởng nhỏ ...nhưng không nhỏ chút nào .

 * Sử hiện hành viết : Lí Bôn - Lưu Bang khởi nghĩa ở núi Mang đãng  đât́ Phong nay có thêm  thông tin : Lí Bôn - Lưu Bang làm 1 chức  quan nhỏ của nhà Tần ở Tứ thượng , thực ra 2 từ ‘tứ thượng’ chỉ là trò lừa , theo phép phiên thiết : tứ thượng thiết Tượng chỉ quận Tượng , điều này đủ để xác định : quận Tượng của nhà Tần là đất Phong châu của người Việt ; Phong châu cũng là Hưng châu của nhà Tùy .Hưng châu chính là đất Hưng hóa  phía tây miền Bắc Việt nam .

Hưng châu cũng chính là nơi nổ ra khởi nghĩa Phùng Hưng bố cái đại vương , như thế Hưng là tên đất khởi nghĩa không phải là tên Việt của thủ lãnh Phùng Hưng Bì la Các - bố cái .

Thật chính xác với dòng tin ít người nhận ra :  Nam chiếu được khởi dựng phía tây Nhị hà tức Hồ̀ng hà nước Việt , người Tàu đã  làm loạn sử  bằng thủ đoạn vặt đổi Nhị hà thành Nhĩ hải là cái hồ lớn ở Vân Nam .


* Tư liệu lịch sư hiện hành viết cha con Lưu Khiêm Lưu Ẩn và Lưu Nhâm  vua kiến lập nước Nam Hán là người ;Thượng sái’  , Sử thuyết họ Hùng nhận ra ‘thượng sái thiết Thái  rất rõ ràng các vua Đại Việt đại Hán là người Thái 1 trong 2 sắc tộc chính của người Việt Kinh và Thái chứ  không phải Hán . tư liệu còn chép rõ các vua họ Lưu ...khởi nghiệp từ đất Phong sau mới mở rộng và lập nước Đại Việt  đô ở thành Phiên ngu hay phiên ngô nay là Quảng châu , sau đã công bố họ thuộc dòng dõi của Lí Bôn - Lưu Bang Hán cao tổ thuở trước nên đổi quốc hiệu Đại Việt thành thành Đại Hưng , sử Tàu đã sửa thành đại Hán , ai đọc sử Trung hoa cũng biết Lưu Bang miếu hiệu là Hiếu Cao tổ chẩng phải Hán Hung gì , Lưu Bang Hán cao tổ là tên và hiệu của ông vua kiến lập nước  Hán triệu ở Sơn Tây sau này là 1 khan hay hãn Hung nô chính hiệu  .

* Sử thuyết Hùng Việt cho Lưu Bị trong sử Thiên hạ chính là Lị phật Tử hậu Lí Nam đế của người Việt .

Có chứng cứ gì không ?

Lí phật Tử cũng là Lí bụt tử , phiên thiết Hán văn cho bụt tử thiết bự ,thì ra  Ĺi Bụt tử là Lí Bự , người Tàu nói tiếng ‘Hoa’ ngọng thành ra  Lưu Bị .

 Sử Tàu viết :  Lưu Bị có hiệu là Lưu Huyền đức , xét trên nền ngôn ngữ Dịch học thì  : Huyền màu Đen là Dịch tượng chỉ phương Nam , đớc là biến âm của đế ; suy ra Lưu Huyền Đức chính là Lí Nam đế , 

vì sử Việt đã có Lí Bôn - Lí Nam đế nên gọi Lí Bự là Hậu Lí Nam đế .

Việc xác định Hậu Lí Nam đế - Lí Bụt tử - Lí Bự  chính là Lưu Bị - Lưu Huyền đức vua kiến lập Tây Thục  xem ra đã có cơ sở .



Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

Đoạn sử Việt quan trọng

 

Lời tự bạch , 

Tôi nay đã cảm thấy yếu đuối lắm rồi nhưng lòng vẫn thấy như ...nợ nượ́c non trả chưa  được bao nhiêu :vì thế   vẫn gắng sức trải  ra những điều đang chứa trong đầu óc , nếu có gì  lủng củng hay sai xót xin độc gỉa lượng thứ .

...


Sách ‘Mộng Khê bút đàm’ viết :”…Giao Chỉ là đất cũ Giao Châu thời Hán, Đường. Thời Ngũ đại loạn lạc, Ngô Văn Xương trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng. Sau Văn Xương bị Đinh Liễn giết, lại có đất này. Năm thứ sáu niên hiệu Khai Bảo của quốc triều, Liễn mới theo về, trao chức Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ; năm thứ tám, phong Giao Chỉ Quận Vương…

Đoạn sách ngắn này chứa điều rất quan trong của Lịch sử Việt Nam .

… loạn lạc thời Ngũ đại … “trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng ”…làm chủ lĩnh Nam thời này thì không thể ai khác là anh em Lê Ẩn – Lê Nham (Lưu )…sao ở đây lại là Ngô văn Xương ? , theo Phiên thiết Hán văn thì văn xương thiết vương , không có ai tên là Ngô văn Xương , Lê Ẩn xây Hưng vương phủ ở thành Phiên Ngu Quảng châu, nên anh em ông được gọi là Ngô vương theo nghĩa là vương thành Phiên ngu hay Phiên Ngô .


917 đến năm 971, chủ yếu là trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), 

Vương quốc này mở rộng kinh đô ở Hưng Vương Phủ , ngày nay là thành phố Quảng Châu. 

Cùng năm này (911) Lưu Ẩn mất, em trai cùng cha khác mẹ là Lưu Nham lên thay. Tới năm 917, Lưu Nham tuyên bố thành lập một vương quốc mới, ban đầu gọi là Đại Việt , nhưng chỉ qua năm sau (918) đổi tên thành Đại Hán . Vì cái cớ họ của ông là Lưu  là họ của  Lưu Bang  nhà Tây Hán và ông ta coi mình là hậu duệ Hiếu Cao tổ  Lưu Bang .

Nước Đại Việt - Đại Hưng kinh đô ban đầu đặt ở Quảng Châu , là 1 trong Hoa Nam thập quốc lãnh thổ gồm Giao châu và Quảng châu giáp giới với các vương quốc: Mân, Sở và Nam Đường, nước Đại Lý và nước Hoàn vương sau là Chiêm thành .

Thực ra lịch sử không hề có cha con anh em Lưu Khiêm Lưu Ẩn và Lưu Nham , Lưu Khiêm cũng  gọi là Lưu Tri Khiêm mà theo phép phiên thiết Hán văn lưu tri thiết Li - Lê ; nơi phát tích dòng họ là Phong châu An Nam  tư lịệu lịch sử đã viết rõ ràng như thế , 3 nhân vật họ Lưu Tàu chính gốc chớp mắt biến ra 3 vị họ Lê , Lê Khiêm Lê Ẩn và Lê Nham rõ ràng là người Việt .

Lịch sử nước Đại Việt -đại Hưng đã bị bẻ cong bẻ quẹo ,Phong châu là nơi khởi phát cơ nghiệp các vua họ Lê nước đại Việt bị sử gia Tàu cho là thành phố Triệu Khánh Quảng Đông của nước Tàu , chính do vậy mà   dưới mắt người Việt ngày nay Lí khắc Chính và Lí Tiến trở thành 2 tên quan Tàu đô hộ , Quảng châu là phần đất thiêng liêng của tổ quốc biến thành đất giặc . Tiền nhân ...chính gốc biến thành giặc xâm lược cai trị .

Xin mở to mắt mà đọc đoạn sử ngắn trong sách Mộng khê bút đàm ....:Giao Chỉ là đất cũ Giao Châu thời Hán, Đường. Thời Ngũ đại loạn lạc, Ngô Văn Xương trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng  ... ,trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng.... có đủ để  xác định Phong châu là đất nào hay chưa  ?.Sử thuyết Hùng Việt đã chứng minh Ngô văn Xương chính là Ngô vương thành Phiên Ngung Phiên Ngu tức anh em Lê Ân̉ và Lê Nham  trước là vương sau là vua nước đại Việt Đại Hưng .

Hậu quả của sai lầm không dừng ở đây mà di hại mãi về sau .

Năm 968 quân Tống do Phan Mĩ chỉ huy bắt đầu tấn công kinh đô Phiên Ngu , vua Đại Hưng Lê Sưởng sau khi sắp xếp chuyển quốc khố đi đã ở lại đích thân đốc chiến giữ thành , Năm 971 khi sắp thất thủ đã cho quân đốt rụi kinh thành quyết không cho quân Tống chiếm đỏng vơ vét , vua Đại Hưng đã bị quân Tống bắt đưa về kinh đô Tống .

Ở phía Tây theo sừ Việt : năm 968 Lí công Uẩn người làng Diên Uẩn châu Cổ pháp được suy tôn làm vua nhưng mãi tới năm 971 mất Phiên Ngung rồi mới đ̣ăng quang chính thức lên ngôi thực ra là thực hiện việc dời kinh đô Đại Việt - Đai Hưng từ phía Đông sang phía Tây , tư liệu gọi là Đinh bộ , đinh là Dịch tượng chỉ phía Tây .

Nhà nghiên cứu sử Bách Việt 18 cho biết câu đối ở Đình Dương Lôi Tân Hồng – Bắc Ninh như sau :

李核 出五蘝肇嗣和刀天 應瑞

Lý hạch xuất ngũ liêm, triệu tự ‘hòa đao’ thiên ứng thụy

蓮花開八葉結成木子地鐘靈

Liên hoa khai bát diệp, kết thành ‘mộc tử’ địa chung linh.

Và Tạm dịch:

Mầm Lý sinh năm cây, dựng nghiệp từ họ Lê trời cho điềm lành

Hoa Sen mở tám lá, kết thành họ Lý ở đất linh thiêng.

“Hòa đao” 和刀 là chiết tự của họ Lê黎

“Mộc tử” 木子là chiết tự của họ Lý 李

Hoa sen 8 lá ứng vào 8 đời vua nhà Lý nhưng triều đại trước cái nền để nhà Lý ra đời không thể là nhà tiền Lê của Lê đại Hành vì có kể cả Lê long Việt làm vua 3 ngày thì nhà tiền Lê cũng chỉ có 3 đời vua lấy đâu ra …Mầm Lý sinh 5 cây, dựng nghiệp từ họ Lê trời cho điềm lành.

Nếu Hoa sen 8 lá ứng vào 8 đời vua nhà Lý ở Thăng long thành thuộc Phong châu tức đất phía Tây thì 5 đời vua Lê ở vế trên phải ứng với 4 đời vua Đại Việt – Đại Hưng cộng với vì chúa tạo dựng nhưng không xưng vương : Lê Ẩn ( phải chăng Hán sử đã biến họ Lê thành họ Lưu ?) ở Hưng vương phủ – Quảng châu kinh đô nước Đại Việt – Đại Hưng thời triều đình phía đông ?.

Cũng theo nhà nghiên cứu lịch sử Bách Việt 18 :

Sách Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) ngoài chuyện chú chó con có chữ Thiên tử trên còn nói đến truyền thuyết về cây gạo đầu làng Cổ Pháp bị sét đánh nứt đôi, bên trong có chữ đề:

Góc chùa cây cả trực trời

Lại có chữ bày Hưng Quốc chi niên.

Rồi Lý Khánh Văn nhân đó đoán:

Điềm này nghiệm đến sự trời

Nào ai tuổi Tuất ấy người làm vua

Lên đền một mối tay thu

Chữ Hưng Quốc ấy ắt là thiên nguyên.

Rồi khi Lý Công Uẩn lên ngôi:

Thùy y củng thủ cửu trùng

Cải nguyên Hưng Quốc đề phong trong ngoài

Hoa Lư hiểm địa hẹp hòi

Xa giá bèn dời về ở Thăng Long.

Như vậy sách Thiên Nam ngữ lục cho ta một thông tin rõ ràng: Hưng Quốc từng là tên nước ta thời kỳ đầu triều Lý, gắn liền với Lý Công Uẩn và việc dời đô ra Thăng Long. Nước ta đầu triều Lý có tên là Hưng Quốc. Đây là quốc hiệu chưa từng được nói đến trong chính sử.

Danh xưng Hưng quốc này cộng hưởng với nghiã của kinh đô Hưng vương phủ đã khẳng định thời Hoa Nam thập quốc chỉ có nước đại Hưng chẳng hề có nước Hán hiếc nào và sâu hơn nữa to lớn hơn nừa .

Do thông tin ...năm 917, Lưu Nham tuyên bố thành lập một vương quốc mới, ban đầu gọi là Đại Việt , nhưng chỉ qua năm sau (918) đổi tên thành Đại Hán . Vì cái cớ họ của ông là Lưu  là họ của  Lưu Bang  nhà Tây Hán và ông ta coi mình là hậu duệ Hiếu Cao tổ  Lưu Bang .

Rõ ràng đoạn sử ngắn nhưng hệ lụy vô cùng to lớn , quan trọng ....Lịch sử nhân loại chẳng hề có nươc Tây Hán  chỉ có nước đại Hưng và nước mà sử Tàu Càn Long chế phẩm chứa ở 4 cái kho hàng gian hàng gỉa Tứ khố toàn thư gọi là Đông Hán do đám  hậu dụế của Lục Lâm thảo khấu dựng nên .

Vua tôi nhà Thanh đã cố ý xóa trắng kí ức của người Việt Hoa Nam , đắc biệt là với người Quảng Đông và khối người Ai Lao di ở Tây Nam Thiên hạ ., họ ra sức , nỗ lợc tẩy cho sạch mọi thông tin lộ ̉ ra  gốc gác giây mơ rễ má của khối dân này  với trước là Nam Việt sau là nước Nam chúa và Đại Việt .

Đám gian ác  đã trơ trẽn tráo trở đổi vùng Tây Nhĩ Hà quê gốc người Nam chúa - Nam chiếu , nơi nổ ra khởi nghĩa Phùng Hưng - Bì la Các Bố cái đại vương ở Tây Bắc Việt Nam thành ra hồ Nhĩ Hải ở Vân Nam .dù lộ Lâm An đất của Phùng An con Phùng Hưng còn chỉ định  rõ ràng trên bản đồ là phía Nam Vân Nam , Tây Nam Bắc Việt chạy tới đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh Việt Nam ngày nay .

Tương tự họ Cũng đổi đất  Phong châu -An Nam Việt nam ngàn năm lịch sử thành  thành phố Triệu khánh ở Quảng Đông  tức họ co rút tất cả về đất đai lãnh thổ  hiện có để đừng ai mơ tưởng vọng về quê cha đất tổ nữa .

Họ mơ tưởng sẽ có ngày toàn thể Thiên hạ không còn ai rõ chuyện động trời :

Hán tộc là con đàn cháu đống của các thiền vu Hung nô ., chẳng dính dáng gì với người  Trung quốc Hoa hạ dòng dõi  của Tam hoàng Ngũ đế cả .


Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

Các đời vua nước ‘TA’ .

 

Giới sử học Trung quốc đã cố ý gộp chung lịch sử họ Hùng vào với lịch sử rợ Ngũ Hồ biến cả Hưng quốc và Hãn quốc thành ra Hán quốc mập mờ đánh lận con Đen tạo ra cái quái thai ghép đầu Rồng lên mình Ngựa gọi là lịch sử Hán quốc .
Sử thuyết Hùng Việt đã tách bạch rõ ràng thành 2 pho sử riêng biệt …của ai trả cho người ấy nhằm bịt cái mồm …vừa ăn cướp vừa la làng lại ;
Kẻ toan chiếm đoạt đất nước và thành tựu văn minh của người khác , chiếm lịch sử và độc đáo chiếm luôn cả tổ tiên của người khác đã lộ nguyên hình …kẻ dối trá , lịch sử chân thực Hữu Hùng quốc hiển hiện :
 
Nước ta sau thời Huyền sử  ...:
NămTriều đạiNước
. < 3000 TCN
2100–1600 TCN
Hùng Việt , Đại Vũ -Tuấn lang
Hùng Hoa , Nhà Hạ -Hải lang
Kiến lập vương quốc –
Thiên hạ
.1600–1046 TCNH- Uy , Nhà Thương -
Hoàng hải lang
Thiên hạ
1046 – 1134 TCNH Chiêu , Văn vương –
Quốc tiên lang
Âu Lạc – Văn lang
. 1134 –771 TCNH Ninh , Tây Chu –
Thừa Văn lang
Âu Lạc – Văn lang
. 770– 256 TCNH Tạo , Đông Chu –
Đức Quân lang
Âu Lạc – Văn lang
256 – 220 TCNTranh dành -trống ngôi
221–206 TCNH Định , Nhà Tần – Chân langĐế quốc Tần



206 TCN – 9 SCNH Trịnh , Đại Hưng –
Hưng Đức lang
Đại Hưng
9–23 SCNH Duệ , Nhà Tân – Duệ langĐại Hưng kéo dài


23-25 SCN Lục lâm thảo khấu nổi lọan , lập Hãn quốc với 2 triều Hán Canh Thủy và -Hán Quang Vũ
25 – 420 SCN trừ đất Tây – Nam nay là Đông Nam Á
Thiên hạ bị các nước rợ Hung nô là Đông Hán , Tào Ngụy và Tấn chiếm
221–263Lý Thiên Bảo – Lý Phật tử
Lưu Biểu – Lưu Bị
Nước Thục
222–280Dương Đình Nghệ
Tôn Kiên
Nước Ngô
304 – 439 SCN Ngũ Hồ cai trị Bắc Thiên hạ
386 – 577 SCN Nam Bắc Triều của rợ Hồ
557–581Nhà Bắc Châu
Đinh Hoàn – vũ văn Ung
Bắc Châu
557–589Nhà Trần Hoa NamTrần
581–618Nhà Tùy – Dương Tam ca
Dương Kiên
Sở
618–907Nhà Đường – Lý công Uẩn
Lý Uyên
Thường
907 – 960 SCN Ngũ đại rợ Hồ cai trị Bắc Thiên hạ
Nam Bắc Triều , rợ Hồ chiêm hết Thiên hạ (trừ đất Giao chỉ và đất phía Tây – Nam)


738 - 902
907 - 971

Phùng Hưng
Khúc Hạo - Lưu Ẩn
Nam Chúa
Đại Việt Hưng quốc
971 - 1945Nhà Lý , Trần, Hồ ,
Lê , Nguyễn
Đại Việt - Đại Hưng
Đại Ngu - Việt Nam , 
Đại Nam
1945 - nayCộng hoàViệt N am
907 – 1125 SCN Bắc Thiên hạ bị rợ Liêu và Kim chiếm và cai trị
(trừ đất Giao chỉ và đất phía Tây – Nam)
1271 – 1368 SCN rợ Nguyên Mông cai trị gần trọn Thiên hạ
(trừ Giao chỉ )
Sau 1402 nhà Nguyên rút về đất Mông cổ sử Tàu gọi là nhà Bắc Nguyên sau bị Thanh diệt
1402 – 1644 SCN nhà Minh rợ Hồ Chu Đệ chiếm quyền cai trị nước Ngô
( trừ phần đất Tây Nam )
1644 – 1902 SCN nhà Thanh rợ Hồ cai trị
(trừ Giao chỉ và phần đất Tây Nam Thiên hạ là lãnh thổ các nước Lỗ ,Yên, Tề và đất vua Châu ban cho họ Phan trước đây ).
1612 – nay SCN thành lập Hợp chủng quốc Hồ Hoa còn gọi là Trung quốc trên lãnh thổ trước là Thiên hạ và đất đai của rợ Ngũ hồ
(trừ ra Giao chỉ và phần đất Tây Nam Thiên hạ là lãnh thổ các nước Lỗ ,Yên, Tề xưa và đất họ Phan nay là Phù Nam ) là lãnh thổ ASEAN nay ..

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2024

Từ nước Hán triệu ...suy ra ...

 

Hung Nô do các bộ lạc du mục liên minh hợp thành, Năm 209 TCN, tức là chỉ khoảng 3 năm trước khi nhà Hán ra đời, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của thiền vu Mặc Đốn . 
Hung Nô đã trường kỳ xung đột với người Thiên hạ ( Sử Tàu lầm lẫn gọi là Trung hoa ), theo thông tin hiện có thì dưới thời Hiếu Cao Lưu Bang lãnh thổ Hung Nô trung tâm tại vùng cao nguyên Mông Cổ, phía đông đến tỉnh Hắc Long giang ; phía nam xuống đến các tỉnh Hà Bắc, Sơn tây, và vùng Hà Khoá tức cực bắc sông Hoàng Hà , về phía tây giới hạn tại núi Ha Nhĩ Thái Sơn thuộc tỉnh Tân Cương hiện nay .
Cùng thời thì Lãnh thổ của Thiên hạ như sau : .
Xin trích một đoạn trong Sách Lộ Sử của La Bí đời Tống.viết về tộc người Thiên hạ thời Đông Hán cai trị :
 “Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu .
Lạc dương trong đoạn sử này là thủ đô của Đông hãn quốc tức nước Quan của hãn Quan vũ .

Bằng 2 đoạn tin ta đã có thể vẽ ra địa vực và ranh giới sinh tồn của 2 dòng tộc từ thời thượng cổ , sự dịch chuyển mạnh mẽ lớn lao cư dân 2 vủng chỉ diễn ra từ thời Tào tháo di dân lập đồn điền ở An huy nước Ngụy thời Tam quốc và mạnh hơn nữa là ở trung đại và cận đại kết qủa những cuộc chiến xâm lược của ngũ Hồ .
Ranh giới chia Rợ và dòng giống Hùng được củng cố thêm bằng bằng chứng nhân chủng và tiên tiến nhất là DNA, Đại đa số rợ Hung nô thuộc về loại hình nhân chủng Mongoloid còn người họ Hùng thuộc vào chủng Nam Mongoloid khác hẳn nhau .
Hán Triệu  là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn (265-316), đầu nhà Đông Tấn (316-420). quốc này cũng có tên khác là Hung Nô Hán và Hồ Hán kiến lập bởi Lưu Uyên ,ông ta tên tự là Nguyên Hải  thụy hiệu Hán Quang Văn Đế ,chính 2 quốc hiệu ‘ấm ớ’ Hung nô Hán và Hồ Hán đã chỉ ra : Hung nô thiết Hồ nên Hán Hung nô và Hồ chỉ là một giống.
Là hậu duệ của thiền vu Hung nô lừng danh Mao Dun , năm 309 Đại Thiền vu Lưu Uyên chán đánh thuê cho các vương nhà Tấn thời loạn Bát vương . để có thể chuyển dòng Lịch sử và văn minh đám du mục Bắc Hoàng hà Lưu Uyên đã thuyết phục các tộc trưởng cầm đầu các đoàn trại du mục Hung nô là bản thân ông cũng có thể đọc được Tứ thư – Ngũ kinh như người họ Hùng sao lại không thể làm hoàng đế của Thiên hạ , được ủng hộ Lưu Uyên đã trở thành hoàng đế kiến lập nước Hán trên đất Sơn Tây – Thiểm Tây ngày nay để phân biệt với các nước Hán khác sử gọi là Hán Triệu , chính lời thuyết phục các trưởng lão Hung nô của Lưu Uyên đã ‘ thành thật khai báo’ Tứ thư Ngũ kinh không phải là tác phẩm của người Hồ Hán và không được viết bằng Hán văn .
Mập mờ đánh lận con Đen tráo đổi lịch sử người Hán đã dùng chiêu …tráo chữ đổi nghĩa :
Sử thuyết Hùng Việt đã nhận ra trong Hán sử các từ Thiền Vu , Đầu Man và Mạo Đốn chỉ là xảo thuật chữ nghĩa ; Thiền vu thực ra đọc lái đi là ‘thù viên’ nghĩa là ‘chúa đối địch’, Đầu Man nguyên văn tiếng Việt chỉ ‘kẻ cầm đầu đám rợ man’ và Mao Dun hay Mạo đốn là phiên thiết cuả Mun – man hay Mán .
…Lưu Uyên thuộc về dòng dõi của vị công chúa mà Hiếu cao tổ Lưu Bang gả cho thiền vu Hung nô năm xưa nên đã lấy họ Lưu của Lưu Bang làm họ và tự coi mình là người kế tục về mặt huyết thống của hoàng tộc Tây Hán .
Có đúng thế không ? .Tưởng là có thể lừa Thiên hạ biết đâu rằng người ta thấy ngay …chỉ là con của công chúa tức cháu ngoại của vua thì làm gì được mang họ Lưu của Hiếu Cao tổ ?, có chăng chỉ có thể họ Lưu của Hoàng tộc Hán Triệu là tiếp nối họ tộc của Lưu Huyền hay Lưu Tú 2 hoàng đế tướng cướp Lục lâm thảo khấu mà thôi .
Chính tên tự Nguyên Hải và hiệu Hán Quang đế đã khai ra dòng dõi đích thực của Lưu Uyên . Từ Nguyên trong tên Nguyên Hải đã xác nhận gốc gác Mông cổ của Lưu Uyên đặc biệt Thuỵ hiệu Hán quang văn đế đã chỉ ra Lưu Uyên chính là hậu nhân của Hán Quang vũ đế vua Đông Hán thời trước ,
Sử thuyết Hùng Việt cho là … lịch sử không hề có nước Quang nghĩa là sáng mà chỉ có nước Quan dịch chữ nom – nhìn của Việt ngữ , Nom – Nam chỉ Quan phương tức phương Nam xưa , Quan vũ là vua nước ở về phía Nam so với đất Giữa hay Giao chỉ , mãi cho đến nay tiếng nói vùng Bắc kinh vẫn gọi là Quan thoại . quan thọai nghĩa là tiếng nói người phương Nam chứ đâu phải quan quyền gì như người Tàu nói .
Cuộc đụng độ giữa Lưu Bang – Lí Bôn và Thiền vu Mao dun là cuộc đụng độ giữa 2 tộc người , đụng độ giữa 2 nền văn hóa , có thể nói là đụng độ 2 kẻ thù không đội trời chung vì thế một khi Lưu Uyên đã là con cháu Thiền vu Mao Dun thì không thể nào là người thuộc dòng dõi của Lưu Bang – Lí Bôn .
Lưu Bang và Sở bá vương Hạng vũ đều là người nước Sở , cùng phò Sở Hoài vương chông Tần . lãnh thổ nước Sở xưa thuộc Kinh châu nay ở Hồ Nam , nơi này đại đa số dân cư vẫn là người Miêu và Thổ gia thì làm gì có con cháu giống Hung nô ở đấy .
Tóm lại sử thuyết Hùng Việt cho là trong lịch sử loài người có tới 2 Hán tộc hoàn toàn khác , 2 tộc này đã bị ai đó cố tình trộn lẫn mập mờ đánh lận con đen nhằm tráo đổi lịch sử và nền văn minh của người họ Hùng .

  • Hưng quốc vua họ Lý .
    Lịch sử Thiên hạ có thời gọi là Hán – Sở tranh hùng nói về cuộc chiến hậu Tần giữa Lưu Bang và Hạng Vũ , Hán Sở chẳng mang nghĩa gì mà đích thực đó là cặp từ lưỡng lập trong văn minh Dịch lí .
    Hên – Sui . Hơn – thua hay Hưng – Suy
    Vì Lưu Bang sử Việt là Lý Bôn thắng nên gọi là Hên hay Hơn hay Hưng đế ,nước củ Hưng đế là Hưng quốc hay Đại Hưng quốc người Tàu đã biến Hưng Hơn Hên ra Hán quốc như đã thấy . ,
    Họ cũng biến họ Lý – Lửa của Lý Bôn thành họ Lưu – Lu của Lưu Bang
  • Hãn quốc của Thiền vu Hung nô .
    Rợ Hung nô hay Hồ gọi chúa của họ là Khan , tiếng Tàu độc âm hoá thành Hãn , nước của hãn là hãn quốc , quân của hãn là hãn quân , sử gia Trung quốc sau cũng đã biến ‘Hãn’ tương đương với ‘vương’danh từ chung thành ra Hán danh từ riêng chỉ tên nước , tên tộc của các đấng con nhà trời.
    Kể ra sự bịp lừa thô thiển này cũng khá hiệu qủa , mãi tới nay rất đông gười trong Thiên hạ vẫn ù ù …cạc cạc lẫn lộn con cháu Tam hoàng Ngũ đế với hậu duệ thiền vu Đàu Man và Mao dun .
    Thực ra nếu mọi người bình tĩnh sáng suốt 1 chút …thì sự việc đâu có lầm lẫn tệ hại đến vậy.
  • Chẳng hạn Như với nước Đông Hán , sử Tàu viết tính ra  Lưu Tú - Hán Thế tổ chúa Đông Hán là con cháu đời thứ 9 của Lưu Bang - Hán cao tổ vì thế nước của ông ta xem như đương nhiên  tiếp nối quốc thống  Tây Hán , Đông Hán đương nhiên thừa hưởng gia tài và là chủ nhân của nền văn minh  Hán tộc .
  • Thử hỏi nếu thực như thế thì Thủ lãnh Phàn Sùng và quân nổi dậy Xích My sao không tôn phò quách Lưu Tú làm thủ lãnh khạ́ng chiến  cho rồi  đâu phải bỏ bao công sức  tìm dòng dõi của Lưu Bang Hán cao tổ để sau cùng mới tìm được đứa bé 15 tuổi đang chăn bò tên là Lưu Bồn tử con cháu Lưu Bang  tôn làm KIến thế đ̣ế  , sự thực tên gọi lưu bồn tử chỉ là trò chơi chữ nghĩa của sử gia Hán tộc , chính xác ra phải viết là lý Bôn tử nghĩa là  con cháu của Lý Bôn .
  • Rõ như thế người ta biết ngay Đông Hán và Tây Hán là 2 dòng giống ̉ khác biệt không hề có việc tiếp nối giữa đông và Tây Hán
  •  Với Lãnh thổ quốc gia ở  vùng Sơn Tây Hà Bắc ngày nay thì rõ ràng các nước   : 

    phụ quốc Quan thời Thương Ân , nước Đông Hán , nước Hán Triệu và sau nữa là nước Liêu - Kim  chỉ  là một và  đó chính là cái gốc  của Trung quốc ngày nay . 

    Người Trung quốc chẳng có liên hệ gì với Tam Hoàng Ngũ để , chữ Nho và Tứ Thư Ngũ Kinh cũng chẳng dính dáng gì đến Rợ Hung Nô , đương nhiên xa lạ với nền văn minh ...Ngựa  .

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2024

Vài dòng ...Việt sử bình dân - phần I

 

Theo tư liệu lịch sử thì Tiên nhân người Việt lập quốc khỏang 5000 năm cách nay trên mảnh đất giới hạn phía Tây là sông Mê kong phía đông là biển Đông Xưa là Động đình hồ nay là vịnh Bắc bộ , phía Bắc (nay) giới hạn bởi Châu

giang hay sông Tứ và phía Nam ( ngày nay) là biển .

Xin nói rõ quan điểm của người viết là giới ḥạn thời gian và không gian như thế không có nghĩa là ngoài khung không thời gian này mặt đất không có người nào khác , không có tộc người hay quốc gia khác ...,mà thực ra đơn giản chỉ là người hoặc những nước có thể có đó thuộc về 1 lịch sử khác , 1 nền văn minh khác không nằm trong khuôn khổ khảo luận này .

Tư liệu cổ sử hiện có đã viết lịch sử theo ý niệm tiên khởi duy ngã độc tôn , trời đất duy nhất chỉ có 1 mình ta ,1 nước ta ,1 họ nhà ta nên các địa danh và nhân danh trong tư liệu cổ thường là những từ chung nói đến ...những gì của ta.duy nhất có , về sau giới viết sử mới dần dần biến thành tên riêng hay hiệu của 1 sự thể như người , đất hay 1 triều đại cụ thể . Vương tổ kiến lập vương quốc gọi chung chung gọi là …, ông Vũ , vương kiến lập triều Thương và Thương Ân là Võ vương , kiến lập nhà Châu là Châu Vũ vương , Sao lắm ông vũ vậy ? , thực ra vũ chỉ là từ chung biến âm của ‘vua’ tiếng Việt nên có bao nhiêu triều thì có bấy nhiêu ông VŨ .

Cá biệt chỉ có từ ‘ nước’ diễn biến ngược lại ; từ tên riêng quốc gia của người Việt cổ là Lạc – Nác – Nước , tên chữ là ‘Xích qủy’ (xích qủy hay thích qủy thiết thủy) trở thành danh từ chung ‘nước’ gọi mọi quốc gia trong tiếng Việt .

Lãnh thổ nước ‘ta’ tên ban đầu đơn gỉan chỉ gọi là ‘Chỗ Giữa’ theo quan niệm duy ngã , viết bằng chữ Nho đảo lại là ‘giữa chỗ’ rồi biến thành ‘Giao chỉ’, đơn giản ‘Giao chỉ’ nghĩa là phần đất ở chính giữa 4 phương Nam Bắc Tây Đông , Về mặt chữ nghĩa Giao chỉ hoàn toàn không phải là ‘Nam Giao’, Nam Giao nghĩa là đất phía Nam Trung quốc như người Tàu cố giải thích nhằm xóa đi gốc tích người Việt , đích xác địa danh Nam giao trong Kinh Thư đầy đủ phải là ‘Nam Giao chỉ’ tức phía Nam ‘chỗ Giữa’ là vùng đất mà tổ tiên người Việt mới khai phá từ ‘chỗ giữa’mở rộng thêm lãnh thổ về phía Nam xưa theo Dịch học (nay Bắc Nam đã lộn ngược) . Nam giao sau trở thành vùng Lĩnh Nam hay Nam lĩnh , Nam lĩnh hợp với Hồng lĩnh và Ngũ lĩnh thành ra 3 miền của địa lí bộ Giao chỉ hay Giao chỉ bộ .

Cổ sử Thiên hạ chép : bộ tộc của Hiên Viên Hoàng đế trước sống ở vùng sông Khương sau dời đến sông Cơ .

Sông Khương thời nhà Nguyễn người Việt gọi là Khung giang , Khung và Khương là 1 ngày nay là sông Mê kong – Cửu long.

Sông Cơ chính xác là sông Cả , Việt ngữ có từ kép cao - cả đã được vận dụng vào lịch sử chỉ thủ lãnh vua chúa , rõ ràng hơn nữa sông Cơ là con sông đánh dấu nơi đế Hoàng lập quốc , Cơ chính là họ của đế Hoàng – vua màu vàng , sông Cả cũng gọi là sông Lam ở Nghệ an Việt nam , sông Lam là cách gọi không chính xác , đúng ra là sông Lang , sông thủ lãnh , người Lảo gọi là nậm Khan nậm là sông , khan nghĩa tiếng Việt là vua – chúa . Cơ cũng là họ của các vua nhà Châu .

Sử thuyết Hùng Việt đọc dòng sử trên bằng Nôm văn và đối sánh với những thông tin khác :

Từ Hoàng đế nghĩa là ông vua thì sau lâu lắm tới thời Tần thủy hoàng mới có , Còn Hoàng đế ở sông Cơ là đế Hoàng vua mảu Vàng , đây là khái niệm vận dụng của Ngũ hành Dịch học , Vàng là sắc của Trung tâm trong ngũ sắc , nói Hoàng đế - đế Hoàng là vua đất Giao chỉ - chỗ giữa là 1 bộ , đất Giữa của vua Giữa là hợp lẽ ‘tự nhiên’ .

Vàng cũng đọc là Woòng biến âm thành > vương hay hoàng trong văn minh Thiên hạ .

Trong Cổ sử Việt có Hùng Vũ vương cũng gọi là Hiền lang , lang là từ đồng nghĩa với vương , Hiền lang chính là Hiền vương kí âm sai đi thành Hiên Viên bên sử Trung hoa .

Tư liệu Trung hoa viết Đế Hoàng tên là Ngu còn Hùng phả Việt nam có Hùng Vũ vương – Hiền lang , sử thuyết Hùng Việt cho Ngu và Vũ đều là biến âm của từ ‘vua’ tiếng Việt .

Hùng Vũ vương quốc tổ của dân tộc Việt chính là Hiên viên Hoàng đế tổ của Viêm - Hoàng tử tôn tức người Trung Hoa . Hoàng đế - đế màu Vàng là người đã kiến lập ‘Hữu Hùng quốc’ tức nước hay quốc gia của người họ Hùng , khi chưa lập ngôi đế Hoàng đế có danh hiệu là Thái Công , tổ phụ ở Chính Giữa cũng là sau cùng của dòng tộc tiếp nối 4 tổ phụ trước ở 4 phương :Thái Cao vua Cả Phục Hy ở phương Đông , Thái Viêm Thần Nông phương Xích ̣đạo , Thái Khang Thiếu Hạo phương Tây và Thái Tiết hay Tiếp cũng gọi là Tiên đế Xuyên Húc phương Nam (xưa nay là Bắc) của dòng giống Hùng trước khi trở thành 1 dân tộc .

Thông tin cổ sử Việt và Hoa rất rõ . khi lập quốc trở thành 1 dân tộc khoảng 5000 năm trước thì đại tộc Hùng là sự hợp nhất dòng máu và văn hóa văn minh của người ở 4 phương 8 hướng con dân của các đế : đế Hoàng . Đế Viêm ; Xi vưu đợt đầu , đợt sau hợp nhất với bộ tộc Hoan dâu dòng dõi Xuyên Húc thành ra Nam bang , chính quyền gọi là Nam triều , sau nữa các vua Nghiêu Thuấn của Nam triều mở rộng lãnh thổ về phía Nam xưa , nước ta có thêm Nam Giao hay Nam Giao chỉ về sau sử gọi là đất Quảng , châu Quảng , Quảng nghĩa là ‘mở rộng’ ra . đất Giao chỉ cộng với Nam Giao thành ra bộ Giao chỉ của Thiên hạ .

Có chuyện thật là lạ ; cổ sử Việt nói rất rõ về 18 đời Hùng vương nhưng không có dòng nào nói đến Hùng quốc trong khi cổ sử Trung hoa kể vanh vách ... chuyện Hoàng đế kiến lập Hữu Hùng quốc nhưng sau đó quên luôn chẳng nói gì đến 1 vị Hùng vương nào cả .

Đế Hoàng lui về và mất ở đất Đào sau khi truyền ngôi cho vua Nghiêu , vua Nghiêu định đô ở đất Đường từ đó Thiên hạ có Nam triều hay Nam bang ở thời cổ sử gọi là thời Đào Đường thị kế sau thời Hữu Hùng thị .

Các vương Nam triều cách gọi khác là Kinh dương vương , từ Kinh này chính là từ chỉ người Kinh hiện nay ,

Kinh dương vương thứ I là đế Nghi hay đế đường Nghiêu , đế Nghiêu trước khi lên ngôi đế là Đường vương hay đường hầu , Việt sử bình dân ghi là ông Giao Thường . Đường chính xác là Thường , từ thường trong nền văn hóa văn minh Dịch học mang nghĩa là thường thường , bình thường , cũng là thường dân hay dân Đen nằm ở hướng đối phản với cao qúy - cao cả của vua chúa qúy tộc hướng Xích đạo .

Kinh dương Vương thứ II là Ngu Thuấn tên dân gian là Diêu trọng Hoá tức Giao hóa , Diêu chính là Giao là Giữa .

Kinh dương Vương thứ III là Vua Lớn - Đại Vũ tên dân gian là ông Cao Mật , mật là biến âm của Một .

Cổ sử viết … vua Nghiêu Thuấn thời Nam triều đã phong ông Cổn làm chúa nước Sùng hiệu là Sùng bá Cổn , và giao cho ông nhiệm vụ trị thủy nhưng ông đã thất bại , phải đến đời sau con ông là ông Vũ mới thành công chấm dứt cơn hồng thủy , ông Vũ đã đục bỏ cả 1 nửa ngọn Long môn sơn cho nước thoát chảy , long môn là cửa nước sông Đà thoát chảy khỏi miền trung du xuống đồng bằng Bắc bộ , sông Đà còn tên khác là Hắc thủy đúng với tên con sông nơi ông Vũ trị thủy . Nhiều tư liệu lịch sử Việt và Hoa hiện có đã xác nhận Hắc thủy chính là sông Đà ở Việt nam chảy từ Vân nam ra biển Nam hải, Long môn hay Vũ môn nơi cá chép nếu vượt được sẽ hoá rồng là thác Bờ ngày nay , địa danh thác Bờ rất có thể là do thác bố biến ra .

Ngoài Thác Bờ sông Đà ông Đại Vũ - vua lớn còn 2 dấu tích khác ở Giao chĩ và Lĩnh Nam .

Sử chép đại Vũ lấy vợ là Đồ Sơn thị và cũng có lần hội chư hầu ở đây , sử thuyết Hùng Việt cho địa danh Đồ sơn xa xưa nay vẫn là Đồ sơn ở Hải phòng Việt nam .

Dấu tích thứ 2 của ông đại Vũ còn lại là núi Cối kê ở Triết giang Trung quốc nay ,Cối kê là nơi hội chư hầu lần thứ 2 cũng là nơi Đại Vũ mất và có đền thờ ông .

Kế nghiệp vua lớn – đại Vũ là đế Khải , đế khải đã kiến lập vương triều Hạ là triều đầu trong Tam đại Trung hoa , dấu vết nhà Hạ còn nhiều như tên gọi vịnh Lan Hạ ở biển Hải phòng mà chính xác ra phải viết là vịnh Lang Hạ tức nói đến đế Khải - Hạ Vũ , ngoài ra rất rõ ràng là Dương thành thủ đô vươmg triều Hạ nay là Dương thành ở Quảng châu tỉnh . Quảng Đông , đặc biệt hơn nữa cư dân chính của kinh đô nhà Hạ chính là người Hẹ nay vẫn sống trên chính quê cha đất tổ mà không biết . Hẹ và Hè - Hạ chỉ là một chỉ phát âm khác đi mà thôi .

Đối sánh thông tin với đoạn sử viết ông Tây bá hầu Cơ Xương đã hợp nhất đất phía Tây với đất của Sùng bá làm thành đất trung tâm Thiên hạ nhà Châu thì nhận ra nước do Tây bá Cơ xương lập nên chính là nước Văn lang hay Âu Lạc của cổ sử Việt ..mà lãnh thổ Bắc giáp động đình hồ Tây giáp Thục , phía Đông giáp Nam Hải tức Quảng Đông và Nam giáp nước Hồ Tôn là Cham pa sau này


Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2024

Vài lời bàn về Thiên hạ nhà Châu xưa.

 




Sử thuyết Hùng Việt cho vùng đất từ Qúy châu – Vân Nam xuống tới bán đảo Mã lai ngày nay xưa vào thời Châu là đất của vua và 3 đại công thần có công giúp vua Châu tạo dựng nên nhà Châu :

* Tỉnh Qúy châu và Vân Nam Trung quốc ngày nay là đất phía Tây nhà Châu xưa

* Miền Bắc và Bắc Trung Việ̣t xưa là đất phía Đông nhà Châu trước

* Nước Lỗ thời Châu của ông Châu công Đán nay là Lào và Thái

* Nước Yên thời Châu của ông Thiệu công Thích sau là Chiêm thành nay là đất Trung Việt

* Nước Tề cuả Khương thái công  sau là Phù Nam – Chân lạp cũng là      Pan Pan hay Phan Phan nay là đất từ Campuchia kéo dài    tới Mã lai .

Bài viết này xin có đôi lời bàn về đất trung tâm của vua Châu và nước Lỗ xưa .

Ông Cơ xương lập nước Âu -Lạc đô ở Phong châu    nay thuộc khu vực Đền Hùng thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.Việt Nam nơi này gọi là Phong kinh sau ông Cơ Phát nối ngôi đời đô về đất Kiểu hay Cảo gọi là Kiểu hay Cảo kinh thuộc Vân Nam Trung quốc ngày nay , Cơ Phát sử Việt gọi là Thục Phán đã hưng binh diệt Trụ chấm dứt nhà Thương Ân kiến lập nhà Châu , Cơ phát lên ngôi Châu Vũ vương tức vua kiến lập nhà Châu    .Châu Vũ vương tôn phong cha là Châu Văn vương tức tổ của nhà Châu , Văn vương cũng là Văn lang nên nước Ău – Lạc còn được gọi là Văn lang nghĩa là nước cuả vua Văn .

Theo tư liệu thì nước Văn lang của Văn vương đông giáp biển Nam Hải (biển Đông), tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình và nam giáp nước Hồ Tôn., Lãnh thổ này nay là các tỉnh Qúy châu , Vân nam , Quảng Tây của Trung quốc và phía Bắc – Bắc trung Việt tức Giao chỉ xưa . Sử thuyết Hùng Việt hiệu chỉnh đông giáp biển biển Đông, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình nay là vịnh Bắc bộ và nam giáp nước Hồ nam,

Khoả̉ng năm 770 nhà Châu trước áp lực của rợ Khuyển Nhung đã phải dời đô về lại Giao chỉ nơi có sẵn Lạc ấp tức đại ấp Lạc do ông Châu công xây đựng trước ,    Lạc ấp trước khi trở thành Đông đô gọi là thành Cổ Loa , Châu công được người việt gọi là tướng quân Cao    Lỗ thực ra đây là danh hiệu của chúa nước Lỗ không phải họ tên ,, Đông đô nhà Châu nay chính là Đông đô Hà nội .

Do việc nhà Châu đời đô từ Cảo kinh từ Vân Nam về phía Đông mà hiện nay ở Việt Nam    tìm được rất nhiều hiện vật khảo cổ mang phong cách Điền là nước ở Vân nam xưa ,đo không biết Hà nội chính là Đông đô nhà Châu    nên giới nghiên cứu đã kết luận…    ‘bừa ‘ hiện vật phong cách Điền trên đất Việt đã đào được    là hàng ‘nhập khẩu’ . việc thiên đô này được danh Nho Phạm sư Mạnh gói trong câu thơ ….Kiểu ngoại bách Man hoàn Cổ lũy , do đã lộn ngược địa lí tự nhiên của Thiên hạ nên trong câu thơ này , bách Việt chỉ những tộc người ở Viêm thiên tức miền Xích đạo của Thiên hạ , bách Man chỉ tộc người sống ở Huyền Thiên là phía Bắc ngày nay .

Trong lịch sử trung đại Việt nam lãnh thổ nước Lỗ thuộc nước Nam Chiếu của Phùng Hưng Bố cái đại vương hoặc viết theo âm Latinh là Pi-lô-cô , Tàu ‘ ngữ’ là Bì la các .