Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

Ngũ hành Dịch học và uẩn khúc lịch sử

 


Bản đồ Địa lý  Việt theo Ngũ Hành
Đi sâu tìm hiểu thì nhận ra  nhiều tên gọi của 5 hành  ứng dụng
 được đặt dựa trên đặc điểm tự nhiên Địa lý  Việt nam thể hiện bằng Việt ngữ .
Bài này dùng Chuẩn mực 5 Sắc  để từ đó đối chiếu xác định phương vị các ứng dụng còn lại của các  Hành vì 5 sắc Dịch học vẫn giữ nguyên như ban đầu  không thay đổi theo thời gian .
Đã có  1 số điều về địa lý trước nay không nhận ra :
Đơn cử ;
*Màu Đỏ -Hướng  Bắc là hướng Xích đạo – Nóng bửc    , bản thân từ xích  là màu Đỏ rồi , Bắc là biến âm của bức – nóng tiếng Việt nên cũng gọi là Viêm thiên – hành Hoả .
*Màu xanh – Hướng Đông bên Mục là Hướng mặt Trời mọc , chính động từ Mọc Việt ngữ đã sinh ra  hành Mộc là gỗ – cây ,  bên Mục là bên mặt Trời mọc ,cũng  sinh ra tay Mặt của con người .
*Hướng Tây là hướng mặt trời lặn , người Việt gọi là  ban Chiều , từ Chiều biến ra bên Chiêu nơi mặt Trời lặn , tay Chiêu là tay trái ngược lại với tay mặt bên Mục .
*Màu Đen  ;Trong nền địa lý tự nhiên Đông phương  riêng phía Nam hay phương Nam  được đặt tên dựa trên hành động của con người :
 Khi ta để tay Mặt ở bên Mục , tay Chiêu hay Siêu tức tay trái ở bên Chiêu – chiều thì hướng mắt nhìn gọi là hướng Nom – nhìn , văn minh Đông phương gọi là Quan phương , trong 4 phương trời là Huyền thiên .
Ngoài ra phương Nước màu Đen do quẻ Cấn trấn nhậm , Cấn là tượng của núi núi cũng là Non , non > nam > NAM .Trong Thái ngữ nước là nậm cũng là Nam .
Trục Bắc – Nam  hiện thời đã lộn ngược so với địa lý tự nhiên Việt Nam nguyên thủy tức căn cứ trên tính chất vật lý không phải phán bừa tự đặt sao cũng được , Phương Nam Huyền thiên màu Đen , lạnh lẽo mờ tối đã bị lộn ngược thành Bắc , sở dĩ gọi là lộn ngược vì chứng lý bản thân từ Bắc là biến âm của bức tức nóng thế cho nên  hợp lý ra thì Bắc – bức phải nằm  về phía  Xích đạo .
Việc đảo lộn Bắc Nam không phải là chuyện nhỏ trái lại nó khiến rất nhiều thông tin trong tư liệu cổ xưa về lịch sử và địa lý của Việt nam và Trung Hoa trở nên không chính xác . thông tin mang trong bản thân danh xưng không thể nhìn nhận chính xác được có thể khiến  Lịch sử Thiên hạ  đổi khác hoàn toàn tùy theo ý đồ chính trị của sử gia  .
KInh Thư có chép … vua Nghiêu mệnh Hy thúc trạch Nam Giao , do Bắc Nam lộn ngược nên ai đó mặc sức lếu  láo  …Nam Giao là vùng đất Giao chỉ ở phía Nam  Trung hoa , gọi là cố sức bẻ cong lịch sử vì nếu đúng theo  chính sử Trung quốc thì mãi tới thời Ân sau vua Nghiêu đến hàng mấy ngàn năm người Trung quộc mới vượt qua Hoàng Hà xuống phía Nam thử hỏi  vua Nghiêu vua Thuấn đã làm gì biết  đến đất Giao chỉ ở phương Nam  ?.
Sử thuyết Hùng Việt cho danh xưng Nam Giao nói đến trong sách Thượng thư thực ra là Nam Giao chỉ , Giao chỉ là tên gịi của  Việt Nam ngày nay , danh xưng Giao chỉ là Biến đổi của chỗ Giữa ,  sau Giao chỉ bộ có lúc gọi  là Giao châu , Nam Giao  tức Nam Giao chỉ chính là đất Lưỡng Quảng   ,Giao là Giữa còn  từ Quảng nghĩa là mở rộng chỉ  việc  khởi từ đất Giữa mà mở rộng lãnh thổ sang vùng đất phía Nam Giao chỉ  là đất lưỡng Quảng ngày nay . hướng  Nam đã dùng trong kinh Thư là hướng nguyên thủy của nền văn minh Dịch học dựa trên nền tảng tính chất vật lý tự nhiên  ngược với tên gọi tùy tiện vô căn cứ như Bắc – Nam ngày nay .
Trước Nam Gao từ NAM đã gắ́n liền với người Việt từ nguyên thủy.
Trong dòng sử dân gian Quốc tổ Hùng Vũ vương của người Việt có đạo hiệu là ‘Vua cha ngọc hoàng thượng đế ‘ , người đã kiến lập triều đại đầu tiên của tổ tiên người Việt đô ở núi Ngàn Hống nay thuộc Thanh Nghệ Tĩnh , vua đã cha truyền ngôi cho con trưởng là đế Nghi lập nên triều đại thứ 2 định đô ở vùng Tam giang nay thuộc Bắc bộ gọi là NAM triều . Đế Nghi đạo hiệu là ‘NAM triều thánh tổ ngọc hoàng thượng để ‘ , dân gian còn gọi là ‘Nam bang triệu tổ ,triệu ở đây là biến âm của chiếu – chúa tức thủ lãnh ,ngày nay gọi là nguyên thủ quốc gia .
Từ NAM gắn chặt với người Việt từ đấy 1 cách hết sức tự nhiên và liên tục qua các thời đại..
Đời Tần nước chia thành 36 quận đất NAM Giao trước gọi là quận NAM Hải và Quế Lâm , thực ra Lâm cũng chỉ là từ biến đổi của Nam – Lam mà thôi .
Tần bị diệt vua Lí Bôn – Lưu Bang dựng Đại Hưng quốc ban đầu định đô ở Đại Hưng thành tức Trường An , đời sau con cháu chia đôi ;phần ở lại Trường an được sử gọi là triều Hiếu , phần NỮA được Lữ Gia phò tá đời về thành Phiên Ngung hay Phiên Ngu gọi là triều NAM việt sau cũng gọi là nước NAM Việt , Lí Bôn thành Nam Việt đế hay Nam Việt vũ đế ..
Thời hậu khởi nghĩa Khăn Vàng Lí Phật tử đã phục sinh Nam Việt sử gọi là Hậu Lí NAM đế .sử Trung quốc gọi là Lưu Bị vua nước Tây Thục .
Thời nhà Đường sử cũ viết vua Đường đổi Giao châu thành An Nam , sử thuyết Hùng Việt phản bác việc này không đúng vì Giao châu do phủ tổng quản Giao châu sau đổi thành phủ đô đốc Giao châu quản lí là đất NỘI thuộc còn An Nam do phủ đô hộ quản lí tức đất tự trị ngoại thuộc.không thể nào đổi được .
Sử thuyết Hùng Việt cho là Giao châu vẫn là Giao châu sau nhà Đường đổi thành Tĩnh Hải quân còn An Nam do phủ đô hộ An Nam quản lí là đất hợp nhất của 2 đô hộ phủ Phong châu ở phía Tây và Hoan châu phía Nam Giao chỉ mà thành , điều này được chứng minh bởi vị quan cai quẩn đất Giao chỉ .luôn gánh song song 2 chức trách : Tĩnh hải quân tiết độ sứ và An Nam đô hộ ‘
Đất An Nam thời trung đại là nơi khởi nghĩa trước là Mai Hắc đế sau là Phùng Hưng Bố cái đại vương trở nên đất gốc của nước Nam Chiếu . Sang đời vua họ Phùng thứ 2 , An Nam thành lộ Lâm An của Phùng An con Phùng Hưng .thực ra Lâm cũng chỉ là từ biến đổi của chữ NAM mà ra . Lâm an cũng chính là đất Lâm Hà hay Nam hà xưa .
Thời sử Trung quốc gọi là Hoa Nam thập quốc thì quốc hiệu nước ta là Đại Việt và Đại Hưng mãi tới vua Minh Mang nhà Nguyễn từ NAM mới phục sinh trong quốc hiệu Đại NAM và gắn chặt với dân tộc ta cho tới hôm nay .

Anh hùng Trần bình Trọng khi sa cơ thất thế bị giặc Mông Thát bắt và dụ hàng đã thẳng thừng trả lời ‘Ta thà làm qủy nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc ‘ câu nói ấy đã thể hiện khí phách người họ Hùng đã và  sẽ còn vang vọng mãi mãi .

Thật đáng tiếc do quốc hiệu 2 thành phần Việt và Nam hiện nay nên mọi người thường gọi là nước Việt người Việt theo lối gọi tắt đôi khi quên bẵng đi tên gọi nước NAM người NAM  gắn bó ngàn đời .


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét