Nhãn

Hiển thị các bài đăng có nhãn Dịch học Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Dịch học Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2013

Năm Lớn nói chuyện Khuôn thước lớn

Khai bút năm Tỵ - con Rắn ; Rắn ↔Lắn↔Lớn , tìm hiểu về thiên “Hồng phạm – khuôn thước lớn” .
Kinh Thư viết sau khi vua Đại Vũ trị thuỷ thành công đã được Trời ban cho Lạc Thư , và dựa vào đó vua chế ra Hồng Phạm Cửu Trù 洪 範 九 疇.
Hồng phạm Cửu trù nghĩa là khuôn thước lớn gồm 9 khoản ,( trù là cái bờ ruộng ) , hiểu theo nghĩa triết học thì Hồng phạm là những nguyên lý phổ qúat chi phối mọi biến đổi trong trời đất và xã hội , con người muốn thành công thì phải tuân theo. Hồng phạm - cửu trù được ngôn ngữ ngày nay gỉan lược thành từ kép ‘Phạm – Trù’ hiểu là khái niệm khoa học phản ánh những thuộc tính và mối quan hệ chung nhất , cơ bản nhất của các hiện tượng biến đổi.
Theo Hồng Phạm, thiên tử trong khi trị dân phải tuân theo quy luật tự nhiên phối hợp với trật tự vận hành của trời đất , thấu hiểu tâm lý người dân , thúc đẩy sản xuất cải thiện đời sống vật chất từ đấy mà chuyển hóa nhân tâm hướng dần con người theo chiều chân thiện mỹ , mọi khía cạnh của công việc to lớn ấy được chia thành 9 trù , Nội dung thực sự của thiên Hồng phạm chỉ có thể hiểu trong sự đơn giản mộc mạc , nó trở thành ...chẳng hiểu gì vì đã bị thần bí hóa ...trời trao cho vua coi như sự chuẩn y ngôi thiên tử và vua có trách nhiệm phải suy nghĩ và hành động theo khuôn thước ấy .
Hồng phạm viết :
Năm thứ 13, vũ vương tới phỏng vấn Cơ Tử.
Vua nói: «Này, ông Cơ Tử ! Trời luôn ám trợ chúng dân để cho họ được an hòa thái thịnh. Trời còn cộng tác với dân để giúp đỡ phù trì họ trong công cuộc bảo tồn giang sơn. Ta không biết đạo trị dân phải diễn tiến thế nào cho phù hợp với những nguyên lý hằng cửu chi phối nhân loại.»
Cơ Tử tâu: «Tôi nghe xưa chúa Cổn ngăn lấp Hồng Thủy, làm đảo lộn tính chất ngũ hành. Thượng Đế nổi giận, không ban Hồng Phạm Cửu Trù, vì thế các định luật hằng cửu bị hiểu sai trật. Cổn bị đày mà chết. Vua Võ nối tiếp công trình trị thủy. Trời ban cho Ngài Hồng Phạm Cửu Trù cho nên các định luật hằng cửu được áp dụng đúng cách, hợp theo thứ tự diễn biến.»
Cơ Tử bèn lần lượt trình bày chín thiên Hồng Phạm cùng vua Võ...
Ông Cổn trị thủy mà đắp đê cản nước lại ngược với thuộc tính tự nhiên của ‘Thủy’ là rút xuống thì lụt lội là chắc , đến ông Đại Vũ thay cha khơi thông nguồn lạch cho nước thóat đi là làm thuận theo tính tự nhiên nên trị thủy thành công , ý của Hồng phạm thật vô cùng đơn gỉan y như chuyện mùa đông thì phải mặc áo bông , ban ngày làm việc ban đêm thì ngủ vậy ...
...thành thực mà nói mãi tới nay chưa chắc gì người ta đã biết Hồng phạm chứa gì dạy gì ..., khuôn thước lớn cho con người phải theo mà cứ tù mù như người cầm cây nhang đi đêm vậy , có thấy bờ mốc gì đâu mà tìm ra lối đi ?.
Hồng phạm có tới 9 trù , phạm vi Bài viết này chỉ xét đến trù thứ I : Ngũ Hành theo tôi là trù dạy về phép suy luận .
“Nhất viết Thủy, Nhị viết Hỏa, Tam viết Mộc, Tứ viết Kim, Ngũ viết Thổ.
Thủy viết nhuận hạ, Hỏa viết viêm thượng, Mộc viết khúc trực , Kim viết tòng cách, Thổ viết giá sắc .
Nhuận hạ tác Hàm, Viêm thượng tác Khổ, khúc trực tác Toan, tòng cách tác Tân, giá sắc tác Cam”.
Chỉ 55 chữ mà gói gọn đạo lý cao siêu vô cùng con người thuận theo thì thành công ngược lại thì thất bại .
Dịch sang tiếng Việt ngày nay :
Ngũ hành gồm có: 1 là Nước , 2 là Lửa , 3 là Cây , 4 là Kim loại , 5 là Đất . Nước thấm xuống, Lửa bốc lên , Cây cong và thẳng , Kim – loại phải theo mà đổi, Đất thì gieo rồi gặt .
Nước chảy xuống nên sinh ra vị mặn , Lửa bốc lên nên sinh ra vị đắng , Cây cong rồi ngay nên sinh ra vị chua, Kim loại phải theo để sửa đổi nên sinh vị cay, Đất có gieo có gặt nên sinh vị 4 ngọt
Theo lối hiểu hiện nay thì bản văn trên chia ra ba đoạn .
Đoạn 1 - nói về thứ tự các Hành : 1 là THỦY, 2 là HỎA, 3 là MỘC, 4 là KIM, 5 là THỔ .
Đoạn 2 - nói về tính chất hay sự vận động của mỗi Hành .
Đoạn 3 - nói về ngũ vị: mặn, đắng, chua, cay, ngọt (hàm, khổ, toan, tân, cam).
Hồng phạm kỳ bí cao siêu qúa nên thực ...chẳng hiểu gì cả , thánh nhân làm ra và lưu truyền đã bao đời đọc đến thuộc lòng rồi mả có hiểu gì đâu ?. Bốc lên thấm xuống thì dễ rồi nhưng Khúc trực và tòng cách là ý gì ? , nhuận hạ thì liên quan gì tới hàm – mặn ?, Viêm thượng sao lại đẻ ra Khổ - đắng ...???
Muốn hiểu Hồng phạm thì phải đặt nó trong khung Dịch học Hùng Việt .
Dịch học Hùng Việt cho là cách hiểu như đoạn 1 là sai , các số 1-2-3 không phải là số thứ tự mà là các số của Hà Thư , Hồng phạm đã đem đặt Ngũ hành trên cái khung Hà thư không phải là Lạc đồ như có người đã làm .

*Xét Đoạn 1 - nói về thứ tự các Hành.

 
Dịch học Hùng Việt cho 10 con số kết thừng thể hiện trên Hà Thư không đơn thuần chỉ là số thứ tự hay chỉ dẫn số lượng thông thường mà chính là “Thập Can’ biểu thị bằng chữ nút số , mỗi Can số đều mang 1 ý nghĩa nhất định ; Thập can bao trùm cả vũ trụ - nhân sinh .
1 là THỦY, 2 là HỎA, 3 là MỘC, 4 là KIM, 5 là THỔ
Dịch Hùng Việt đổi lại là :
1 là THỦY, 2 là HỎA, 3 là MỘC, 4 là THẠCH- THỔ , 5 LÀ KIM - CAM .
Hà thư Lạc đồ là 2 đồ hình bằng “chữ thắt nút” tương truyền là có từ thời vua Phục Hy nên lúc này chắc chắn chưa biết đến Kim loại vì thế không thể có hành Kim với thuộc tính là Cứng rắn trấn phía Tây Hà thư chết cứng không thay đổi .
Phương đông Mềm sống động thuộc về Hành Mộc tức gỗ - Cây cối , phương Tây chết cứng tượng trưng bởi Đất Đá hành Thổ – Thạch là Hợp Lý .
Trung tâm mọi diễn biến luôn là con người , Nhân là con người và Nhân cũng là cốt lõi tức trung tâm mọi diễn biến thay đổi . .
Quan niệm cơ bản của Dịch học xét về vật chất thì trung tâm đồ hình hành Cam – Kim là “Khí”, Khí phân lập chất Nhẹ bay lên tức hành Hỏa , nhẹ ↔nhị -2 chỉ năng lượng , chất nặng chìm xuống thành Vật chất tượng trưng bởi hành Thủy , Hành Trung tâm là Hành Cam không phải Kim theo nghĩa là kim loại , Cam tiếng Việt cũng là màu Vàng sắc Trung tâm trong ngũ Sắc , Cam là vị Ngọt vị trung tâm trong ngũ vị , nhưng quan trọng hơn hết là vai trò của nó trong dòng thời gian ; Kim là hiện nay lúc này là điểm nối qúa khứ và tương lai ; Xét như vậy chính giữa phải gọi là Hành Cam ; về vật chất là chất Khí uyên nguyên , còn trong cõi nhân sinh thì Hành Cam chính là con người – loài người , trong thời gian là lúc này tức hiện tại .
Triết gia phán ... Hành là cái gì đó không thể mô tả , không hình tích mà lại bàng bạc khắp nơi ...thôi đành chịu vỡ đầu ra mất , người viết chỉ biết hiểu theo kiểu dân gỉa , hiểu một cách mộc mạc ....Ngũ hành là 5 hình hay 5 dạng tức 5 thành phần của 1 chỉnh thể đang vận động biến đổi ,sự vật thay hình đổi dạng như thế nào chính là kết qủa tổng hợp của sự tương tác giữa 5 hành ấy .
5 hình là 1 cơ cấu tổ chức, 1 cơ chế hoạt động có 5 thành phần, trong đó hình quan trọng nhất có vị trí trung tâm là hành Cam – Kim (Dịch học Tàu là hành Thổ) , Xét về xã hội loài người có ý thức thì Chính giữa là điểm khởi đầu và kết thúc của 2 chuỗi phản ứng dây chuyền 1 tương sinh và 1tương khắc , 2 vòng Ngũ hành cùng 1 tâm đồng thời chuyển động là nghĩa đúng thực của từ ‘9 Trù’ , còn hiểu 9 trù là 9 khoản của thiên Hồng phạm chỉ là lối hiểu gán ép ngụy tạo nhằm che đi nghĩa thực của danh xưng 9 trù , ai đó đã cố ý đẻ cho ra đủ số 9 nên ta thấy trong Hồng Phạm độ nông sâu uyên áo giữa các trù rất khác nhau , có Trù thì bề sâu tư tưởng như biển như trời ngược lại có trù lại vớ va vớ vẩn chẳng ra sao không thể cho nằm trong ‘khuôn thước lớn’ được ..
Hồng phạm Hùng Việt viết:
Nhất viết Thủy, nhị viết Hỏa, tam viết Mộc, tứ viết Thạch (Thổ), ngũ viết Cam (Kim); Dịch học họ Hùng khác Dịch Tàu ở 2 điểm: trong 5 hành đã hoán đổi vị trí hành Kim và Thổ (viết thành Cam- Kim và Thạch- Thổ) .
Đối chiếu những con số của 5 hành Hồng phạm và nút số của Hà Thư ta nhận ra sự tương đồng vị trí hoàn toàn đúng y như tính chất các Dịch tượng trong Dịch học Hùng việt chỉ định .
Hành Hỏa ở phía trên hoặc phương Bức (hướng xích đạo); Hành Thủy chiếm bên dưới hoặc hướng địa cực Bắc hiện nay.
Mộc ở phương Đông, Thục (Thạch, Thổ) ở phương Tây và Cam ở chính giữa.

Đoạn văn chỉ dẫn trên cho ta biết Hà Thư chính là Dịch học dùng nút số vì có sự thống nhất hoàn toàn về tính chất và phương vị các Hành và các nút số Thập can hiểu theo nghĩa trong tiếngViệt .

*Xét Đoạn 2 - nói về tính chất của mỗi Hành :
Hỏa viêm thương
Thủy nhuận hạ
Mộc viết khúc trực
Thạch viết tòng cách
Cam viết giá sắc
(Nguyên văn cổ thư Trung Hoa : Kim viết Tòng cách ,Thổ viết giá sắc)
Dựa vào truyền thuyết nhiều nhà nghiên cứu đã đặt thứ tự Ngũ hành vào Lạc đồ Kết quả không chỉ ra được điều gì về tính chất các hành Nhưng khi lồng Ngũ hành vào Hà thư như chúng ta đang làm thì chợt nhận ra ...Hồng phạm đúng là khuôn thước lớn , là nguyên lý nền tảng và phổ quát .
Chỉ vài hàng tưởng là vớ vẩn ...Hỏa viêm thượng , Thủy nhuận hạ , Mộc viết khúc trực, Thạch viết tòng cách , Cam viết giá sắc... thực ra chính là nền tảng của tư duy , chỉ ra các mối liên quan cơ bản giữa con người và nhiên giới , con người và Xã hội cũng như con người với chính mình ....qủa đúng là Hồng phạm .
Ta đã biết số 2 và 1 trong Hà Thư là nhẹ và nặng, số 8 và 9 là mềm và cứng nên so sánh mới viết:
1. Hỏa số 2 viêm thượng, lửa thì nhẹ nên bốc lên trên cao; đấy là nghĩa vật lý còn ý nghĩa triết học: tinh thần là phần làm nên giá trị con người, tức trở nên cao quí hay viêm thượng.

2. Thủy số 1 nhuận hạ, thân xác cũng là 1 sinh vật trong sinh giới, nó cũng bị chi phối bởi các quy luật vật lý và sinh học như các động thực vật khác nên Dịch viết: Thủy nhuận hạ, hạ đây không phải là hạ cấp, bên dưới mà là sự ràng buộc vào thế giới vật chất thực tế, cụ thể.

3. Thạch số 4 viết Tòng cách (nguyên văn Kim viết Tòng cách)
Tòng là tuân theo Cách là sửa đổi .
Hướng Tây là cứng (Hà Thư) là mối quan hệ người – tự nhiên (tứ tượng) nên ngũ hành tượng trưng bởi đá, tục ngữ Việt thường nói cứng như đá; không thay đổi là đặc tính của quy luật lý lẽ.
Chi phối mối tương quan con người và tự nhiên là lý lẽ; đứng trước các quy luật con người chỉ có một cách duy nhất là tuân theo, không thể nào sửa đổi được vì nếu sửa đổi được thì đâu có còn là quy luật tự nhiên, đó chính là nghĩa chữ Tòng.
Tôn trọng theo đúng các quy luật để vận dụng ngay các quy luật đó làm lợi cho mình gọi là cách.
Thí dụ: ta không thể bắt nước chảy ngược từ thấp lên cao được; nhưng vận dụng ngay quy luật nước chảy xuống thấp để đắp đập tưới tiêu, làm thủy điện v.v… Biến thủy tai thành thủy lợi đấy chính là tòng cách.

4. Mộc số 3 viết khúc trực .Khúc trực có nhiều ý:
- Gẫy khúc và thẳng thắn
- Cong và ngay
- Gián tiếp và trực tiếp
Ý rất rõ muốn đến thẳng phải đi đường vòng … nói như thế nghe hơi kỳ…
Quẻ Mộc phương Đông chỉ xã hội chỉ mối tương quan – Người và Người.
Hà thư có vòng trong là vòng sinh, vòng ngoài là vòng thành; vòng thành chỉ những gì đã hiện ra; đã hình thành rồi; nhưng cái gốc rễ sinh ra nó lại nằm chìm ở vòng sinh. Thí dụ: trộm cắp như rươi có nguyên nhân chính ở vòng trong là: sự thiếu thốn quá mức như vậy nhà cầm quyền không phải chỉ biết có trừng phạt… mà còn phải biết giải quyết tệ nạn tận gốc rễ tức làm sao để không còn nghèo đói, ai cũng đủ ăn, đủ mặc.
Tóm tắt mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa, muốn giải quyết nó tức “trực” thì phải thay đổi nguyên nhân đã tạo ra nó tức “khúc” Mộc viết khúc trực không phải là một quan niệm cổ nữa mà là một định luật của ngành khoa học chính trị hiện đại.

5. Cam số 5 viết giá sắc
Nguyên văn trong Dịch học của Tàu Thổ viết giá sắc.
Cam là hành trung tâm, là nơi xuất phát và qui về. Cam chính là chỉ con người hay loài người sống thực, một cá nhân bị vây tứ phía bởi các quy luật, tự nhiên và xã hội
Cam = chính ta, tại đây, lúc này.
Dịch viết: cam viết giá sắc (nguyên văn Thổ viết giá sắc)
Giá là gieo, sắc là gặt. Hiểu theo ngôn ngữ này là bởi con người, vì con người
Chính con người phát động chuỗi phản ứng dây chuyền mà cũng chính con người lãnh hậu quả sau cùng. Có 2 chuỗi phản ứng: ngũ hành tương sinh và ngũ hành tương khắc .

*Xét đoạn 3 - nói về ngũ vị :
Trọng tâm của bài viết nằm ở đoạn này .
.... “Nhuận hạ tác Hàm, Viêm thượng tác Khổ, khúc trực tác Toan, tòng cách tác Tân, giá sắc tác Cam”.
Đoạn nói về ngũ vị đã Chỉnh sửa lại theo Ngũ Hành của Hà Thư Dịch học Hùng Việt :
Thủy thấm xuống nên sinh ra vị mặn , Hỏa bốc lên nên sinh ra vị đắng , Mộc phải cong để mà ngay nên sinh ra vị cay, Thạch phải tuân theo để lợi dụng nên sinh vị chua, Cam là gieo và gặt tức xuất phát và quy về nên sinh vị 4 ngọt .



Thực ra đoạn văn chẳng có gì là rắc rối , hiểu 1 cách mộc mạc đây chỉ là sự định vị 5 vị trên sơ đồ 5 Hành .
Hành Thủy và vị Hàm – Mặn cùng ở bên dưới .
Hành Hỏa và vị Khổ - Đắng cùng ở bên trên .
Hành Mộc và vị Tân – cay ở bên Đông.
Hành Thạch và vị Toan – chua ở bên Tây .
Hành Cam và vị Ngọt ở trung tâm .
Điều lạ lùng nằm ở chỗ :
Về mặt ngôn từ Các từ hàm khổ tân toan cam không chỉ ra chút gì mối liên hệ bên trong để xác định sự tương đồng vị trí Giữa 5 hành và 5 vị .
Nhưng khi dùng từ Việt thì tương quan về mặt ngôn ngữ đặt trong khuôn khổ Dịch học giúp nhận ra 1 cách dễ dàng sự liên quan này .
Theo Dịch học thì Nhỏ bên dưới lớn bên trên .
Thủy ở dưới là nhỏ , nhỏ=mọn , mọn ↔mặn ; mọn ↔mặn
Hoả bốc lên theo trục ‘đứng’ nên Hoả có vị ‘Đắng’; đứng↔đắng
Vị trí của Mộc cũng là bên Mục , ban Mai mặt trời mọc , Mộc là gỗ là ‘cây’ nên vị của nó ‘Cay’; cây↔cay
Ngược với bên Mục là bên ‘Chiêu’ , ban chiều ở phía Tây , đất –đá tức hành Thổ – Thạch phía Tây có vị ‘Chua’; chiêu↔chua .
Ở trung tâm : hành Cam – Kim là sắc vàng là vị ngọt (sắc trung tâm , vị trung tâm ).
Xem Xét sự hợp lý của tên 5 vị trong tiếng Việt và phương vị của nó trong Hà thư , căn cứ vào tính chất các Dịch tượng có thể nói mà không sợ sai lầm ...Dịch học nguyên thủy viết bằng Việt ngữ , tên gọi các thành phần Dịch học ngày nay đều là các từ hoặc là ký âm hoặc là chuyển ngữ sang Hán văn từ cái gốc tiếng Việt .

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2012

Lời Kết


Dịch là sự chuyển biến, Dịch lý là lẽ chuyển biến, hay quy luật chuyển biến, đã gọi là lý thì phải sáng sủa rõ ràng, ở đây Dịch lý lại huyền ảo là trái lẽ thường.
1/
Việc đó có thể là do khách quan vì dịch học là tác phẩm của dân tộc Hùng, khi họ Hùng mất nước thì Dịch học cũng bị sang đoạt nhưng do trình độ văn minh của kẻ đã chiếm đoạt Dịch quá thấp không thể hiểu nổi Dịch lý nên Dịch là tư tưởng khoa học, tính toán bị kéo xuống thành sách dùng để bói toán, sau gần ngàn năm mất chủ quyền dân họ Hùng dù đã phục hưng dân tộc nhưng quên luôn chủ quyền của mình đối với Kinh Dịch, coi đó là sản phẩm văn hóa ngoại lai và cũng đọc, cũng học Dịch học y như người Tàu kết quả là Kinh Dịch trở thành tác phẩm huyền ảo, khó nuốt số một trên trần gian này, bóng khoa học thấp thoáng khắp cả cuốn kinh nhưng không tài nào nắm bắt được đích xác, rõ ràng một chỗ nào để làm mấu chốt, đến độ trong ngôn ngữ dân gian việt hình thành từ “quỉ quái” để chỉ Dịch lý, quỉ là biến âm của quẻ, quái cũng là quẻ phát âm theo tiếng Tàu, 8 quẻ Đơn, 64 quẻ chồng của dịch học trở thành: cái “qủy quái” gì thế này? Biểu hiện não trạng của con người trước một sự kiện, sự vật… không hiểu nổi.
2/
Cũng có thể là do Hán tộc cố ý tạo ra sự huyền ảo đó; Dịch học là tinh túy của tri thức, là nền tảng của khoa học nên với bản tính thâm hiểm sẵn có, họ đã cất giấu ém nhẹn Dịch học tinh tuyền, chân xác chỉ lưu truyền trong một thành phần đặc biệt nào đó, coi đó như bảo bối của dân tộc, còn với mọi người thì họ tung ra Dịch học giả hiệu đầu voi đuôi chuột chẳng ra sao cả, chính vì vậy nên Dịch mới huyền ảo, rõ ràng thấy có điểm sáng nhưng đi mãi chẳng tới… việc này tiền nhân người Việt đã nhắn cho con cháu biết.. đấy là cái nỏ thần giả mà Trọng Thủy đã tráo, còn nỏ thần thật hắn đã lấy đem về Tàu rồi.
- Xưa Tây Bá Hầu tức ông Cơ Xương cũng là Văn Vương của nhà Chu hay Văn Lang của dân Âu Lạc cổ, sử Việt còn ghi chép rõ ràng về An Dương Vương lập nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa làm Quốc đô, An Dương Vương chính là tên “Tam sao thất bổn” của Âm Dương Vương, vua Âm Dương thì rõ ràng còn ai khác ngoài Văn Vương người đã viết Chu Dịch.Quẻ Tỉnh đã viết : vua đã nạo bùn gạn đục khơi trong giếng nước để cho nước trở nên trong mát khiến mọi người có thể dùng được.
Đấy cũng là tấm lòng và hoài bão của người viết sách này.
Dịch học họ Hùng hết sức trong sáng và rõ ràng. Chứa đựng trong bản thân nó các qui luật của 3 tầng chuyển biến từ nông tới sâu.
- Quy luật chuyển biến vật lý
- Quy luật chuyển biến sinh học
- Quy luật chuyển biến xã hội
Chuyển biến vật lý được xác lập ở khối vật chất vô cơ, còn chuyển biến sinh học xảy ra trong khối vật chất hữu cơ; sự chuyển biến là kết quả của chuỗi phản ứng trực tiếp và khách quan.
Còn sự chuyển biến xã hội luôn là phần giao của khách quan và chủ quan; hành động chủ quan, nỗ lực, cố gắng luôn là tâm điểm của chuỗi phản ứng vũ trụ con người.
Bao la như vậy nhưng tinh túy của dịch học chỉ gồm 3 chữ: Nhân, Trung và Chính:
- Nhân là con người, nhân cũng là trung tâm, cốt lõi; nhân là nơi xuất phát và quy về của mọi hành động chủ quan có ý thức
- Nhân là đầu mối mọi giá trị không có con người thì không có gì là giá trị cả.
Tất cả là con số không.
Sau chữ nhân đến chữ Trung và Chính, trung không phải đơn thuần là ở giữa, trung còn là trúng hay đúng trong tiếng Việt, Dịch học chỉ cốt có một điều làm sao nắm được chữ Đúng.
Đúng nơi, đúng lúc và đúng cách, nghe tưởng như đơn giản nhưng thực ra muốn đạt được điều đó là cả một quá trình tích lũy công sức của không biết bao nhiêu người, bao nhiêu đời để có một nền tảng khoa học, chữ đúng chính là cha đẻ của khoa học và chỉ có chữ đúng mới đưa đến thành công.
Chữ Chính hay chánh nghĩa là hành động theo lẽ phải hay làm điều phải, làm điều tốt cho mình và mọi người.
Chữ Trung nằm trong phạm trù khoa học khách quan, còn chữ Chính lại thuộc phạm trù đạo đức chủ quan.
Việc làm và chữ tâm khi làm việc đó là mấu chốt để bình xét chính hay bất chính, ở đời nổi cộm có 2 chữ quyền và lợi, nếu chủ tâm khi hành động chỉ nhắm đến lợi quyền cho riêng mình thì bị coi là có tâm địa đen tối xấu xa, tức bất chính.
Dịch học ra đời là cốt dạy cho ta làm sao đạt được sự dung hòa giữa bản ngã và tha nhân, giữa cái tôi và người khác, tuyệt đỉnh của sự dung hòa gọi là thái hòa.
Tức trạng thái hòa hợp trọn vẹn mọi bề giữa ta, xã hội và trời đất tự nhiên.
Dịch học rất xưa nhưng lại “hiện đại” 4 nguyên chuẩn của dịch học sau 3.000 năm vẫn còn y nguyên giá trị:
1/ Tính Nguyên = là khởi nguồn, mọi hành động đều khởi nguồn từ con người ngày nay gọi là tính nhân bản.
2/ Tính: Hanh; hanh thông, thông suốt vì hợp lẽ, hay dựa trên khoa học mà hành động.
3/ Tính Lợi: lợi ích thiết thực không ăn bánh vẽ, phù du hư ảo.
4/ Tính Trinh : bền vững, lâu dài. Ích lợi trước mắt và mãi về sau
Gọi là nguyên chuẩn vì nó là tiêu chuẩn hướng dẫn hành vi con người, hành động thành công hay thất bại, trọn vẹn hay không tùy theo hành động đó phù hợp tới mức nào so với 4 nguyên chuẩn trên.
Mục tiêu cao nhất của Dịch học là sự làm chủ của con người.
Tự chủ, làm chủ xã hội, làm chủ giới tự nhiên, làm chủ để có thể đạt mục đích của Dịch học là hạnh phúc mãi mãi cho mọi người.
3.000 năm sau Văn Vương, hôm nay chúng ta lại phải cùng nhau gạn đục khơi trong vì nước giếng đã trở thành bùn. Tính toán khoa học đã bị hạ cấp thành bói toán, mê tín khiến Dịch học trở nên vô ích đối với nhân loại.
Mạnh dạn dám nghĩ dám làm, xới tung tất cả lên, không kiêng kỵ điều gì, rồi dùng đầu óc mình mà sắp xếp lại. Rất mong được sự tiếp sức của mọi người vì tự biết tài hèn sức yếu một mình cùng lắm cũng chỉ đi được một quãng đường… dù vậy lòng rất thanh thản nhẹ nhàng vì biết chắc sẽ có người giúp sức để cuối cùng rồi nước bùn của “giếng Dịch học” cũng trong mát trở lại, làm ích cho mọi người.
Sách Tham Khảo 1- Cội nguồn văn hóa Trung Hoa – Dương Đắc Dương, bản dịch Nguyễn Thị Thu Hiền, NXB Hội Nhà Văn, TP.HCM – 2003
2- Chu Dịch Sào Nam Phan Bội Châu, NXB Khai Trí – Saigon 1969
3- Chu Dịch Chính Kinh – Hoàng Thư, NXB – Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2001
4- Chu Dịch Đại Truyện – Lê Anh Minh, NXB Khoa học xã hội – TP.HCM 2006
5- Kinh Dịch Phục Hy huyền diệu và ứng nghiệm – Nguyễn Hồng Sinh – NXB TP.HCM 2002
6- Kinh Dịch cấu hình tư tưởng Trung Quốc – Dương Ngọc Dũng – Lê Anh Minh – NXB Khoa học xã hội – TP.HCM 2006
7- Kinh Dịch với Vũ trụ Quan Đông Phương – Nguyễn Hữu Lượng – NXB Sài Gòn 1971
8- Lạc Thư minh triết – Kim Định – NXB Nguồn Sáng – Sài Gòn 1971
9- Nguồn gốc văn hóa Việt Nam – Kim Định – NXB Nguồn Sáng – Sài Gòn 1971
10- Nghiên cứu Chu Dịch – TT Quốc học Đại học sư phạm Hà Nội, NXB – Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2002
11- Tâm tư – Kim Định NXB – Khai trí Sài Gòn 1970
12- Tìm về cội nguồn Kinh Dịch – Nguyễn Vũ Tuấn Anh – NXB Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2002



Văn Nhân - Nguyễn quang Nhật .

Cặp quẻ: Khép (khấp) – Khởi




image095Dịch học thông hành gọi là:
Ký tế – vị tế
Ký tế = là việc đã xong
Vị tế = là việc chưa xong
Dịch học họ Hùng có cặp quẻ: khép – khởi. Ý là: khép là khép lại, đồng nghĩa với ký tế, khép là kết thúc chu kỳ trước đồng thời cũng là khởi là bắt đầu chu kỳ sau. Lúc khép lại cũng chính là lúc khởi đầu.
Quẻ khép – khởi của Dịch học họ Hùng ngược với Dịch học của Tàu:
Hỏa trên, thủy thành ra quẻ khép tức ký tế hay việc đã xong.
Dịch học Tàu gọi là: hỏa trên thủy tạo ra quẻ vị tế là việc chưa xong.
Quẻ thủy trên hỏa thành quẻ khởi cũng tương tự.
A- Quẻ: Khép = Hỏa/ Thủy
Khép hay ký tế đều mang ý nghĩa là việc đã xong.
Hỏa ở trên, thủy ở dưới là đã đâu vào đấy; mọi việc đã an bài, xem tượng đó nên đặt tên là ký tế.
a) Lời Quẻ:
Ký tế, hanh tiểu, lợi trinh, sơ cát chung loạn.
Việc đã xong ký tế, việc nhỏ đã thông, bền lòng được hưởng lợi lúc đầu tốt đẹp về sau hỗn loạn.
Chuyện nhỏ là chuyện làm ăn, cuộc sống. Tiểu hanh là chuyện làm ăn, cuộc sống thì hanh thông thuận lợi.
Lúc đầu tốt đẹp vì như đã nói đến ở Hào từ quẻ trung phu, việc đã thành tức là lúc chế độ xã hội chuyển biến phù hợp với nền tảng vật chất kỹ thuật, về sau hỗn loạn vì khoa học kỹ thuật luôn biến đổi tiến bộ, sự tiến bộ này tạo thành một độ lệch, càng ngày càng lớn. Đó là nghĩa: sơ cát, chung loạn.

b) Lời tượng:
Hỏa tại thủy thượng, ký tế
Quân tử dĩ tư hoạn, nhi dự phòng chi
Quẻ khép hay ký tế: người quân tử xem tượng đó biết suy nghĩ đến sự loạn khi đang yên, phải ngăn ngừa từ khi nó chưa xảy ra.
c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ
Duệ kỳ luân, nhu kỳ vĩ, vô cữu,
kéo lết bánh xe, ướt cái đuôi không lỗi.
Dịch học dùng hình ảnh vượt sông để chỉ sự cải cách xã hội.
Kéo lết cái bánh xe là hãm bớt tốc độ cải cách xã hội lại, vì bộ phận chậm tiến nhất (cái đuôi) trong nhân dân không theo kịp không chấp thuận việc cải cách hoặc bắt buộc phải theo nhưng không thông suốt, khẩu phục tâm bất phục, làm chậm lại như thế thì không mắc lỗi.
c.2) Hào Nhị
Phụ táng kỳ phất, vật trục thất nhật đắc.
Kiệu hay xe của phụ nữ quyền quý mất cái rèm che (nên không đi đâu được) vật trục thất nhật đắc.
Chuyển đổi nếp nghĩ, quan niệm, về phong hóa xã hội không theo kịp với đà cải cách xã hội, đừng bận tâm bởi cái nếp văn hóa đã lạc hậu ấy; chỉ một thời gian sau sẽ đâu vào đấy, nghĩa là tự nó thích nghi.
Kiệu hay xe của đàn ông đi không cần che rèm, bây giờ cải cách phong hóa xã hội bỏ luôn cái rèm che của kiệu hay xe của phụ nữ đi nghĩa là thực hiện bình đẳng nam nữ ý tưởng đó quá táo bạo trong thời phong kiến… chuyển biến hay nhận thức của chính giới nữ cũng không theo kịp.
c.3) Hào Tam
Cao tông phạt quỷ phương, tam niên khắc chi, tiểu nhân vật dụng .
Với lòng chí thành, muốn khai hóa văn minh cho dân phía tây, vua Cao Tông nhà Thương đã đánh nước “phương Tây” hay Qủy phương bọn tiểu nhân không thể làm như thế.
Chữ Quỷ là biến âm của Quí hay Cửu nghĩa là số 9, số 9 trong Hà Thư (đồ) chỉ phương Tây (số 8 chỉ phương Đông); Quỷ phương là nước ở phương Tây nhà Thương gọn lại là Tây Quốc.
Đất chính của nhà Thương và Ân Thương là vùng hồ Nam và Hà Nam, phía Tây của vùng ấy là Tứ Xuyên ngày nay, đấy là đất của giống người Khương hay Tạng Tộc, sau được gọi là người Quì Việt hay Quỉ Việt
Tiểu nhân vật dụng là bọn tiểu nhân làm gì có lòng chí thành muốn khai hóa văn minh cho dân, chúng chỉ có lòng tham lam, chiếm đất đoạt của thì tuyệt đối không được gây chiến.
Đa số các bản dịch kinh chu dịch đều dịch: Tiểu nhân vật dụng là không được dùng bọn tiểu nhân.
c.4) Hào Tứ
Nhu hữu y như, chung nhật giới
Coi chừng áo lành thành áo rách. Lúc nào cũng phải cảnh giác.
Cách mạng thành công rồi nhưng không được ngủ quên trên chiến thắng. Từng giờ từng phút những thói hư tật xấu cùng với bọn giả danh cách mạng hay bọn thoái hóa biến chất lúc nào cũng sẵn sàng ngóc đầu dậy, phá hoại những thành tựu của công cuộc cải cách….biến áo lành thành ra áo rách.
c.5) Hào Ngũ:
Đông lân sát ngưu (dĩ tế) bất như tây lân chi thược tế, thực thụ kỳ phác.
Nhà Ân Thương tế lễ thịnh soạn (sát ngưu) không bằng nhà Chu tế lễ đơn giản, đạm bạc (thược tế), trời ban ân, gióng phúc cho bộ tộc Chu.
Cuối đời Ân Thương sa đọa đến cực điểm; mất lòng dân thì có hối lộ trời bằng cách giết trâu tế lễ, trời cũng chẳng dám nhận, vì lòng dân là ý trời, ngược lại nhà Chu thời Văn Vương, Vũ Vương thực là bậc minh quân – thánh đức.Phong hóa xã hội thì chính đạo sáng ngời như vậy chỉ cần tế lễ mọn tượng trưng thôi vì ý trời đã sẵn hướng về nhà Chu.
c.6) Hào Thượng
Nhu kỳ thủ lệ.
Cực thịnh ắt suy, trăng tròn là lúc bắt đầu khuyết, nguy ở chỗ là không phải một số dân chậm tiến, ngu muội không đồng tình với cải cách mà bây giờ là hàng ngũ lãnh đạo không muốn tiếp tục cải cách vì sự cải cách sẽ đụng chạm đến quyền lợi họ đang có, đang được hưởng nên hào từ bảo: Nhu kỳ thủ, lệ: Qua sông mà ướt cái đầu, đáng lo.
Dịch là chuyển biến, sự chuyển biến liên tục không bao giờ dừng lại, có những người hôm nay hăng hái phất cờ tiên phong cách mạng, nhưng thời gian sau lại trở thành đối tượng mà cách mạng phải trừ khử vì họ khư khư ôm ghế nên trở thành cục đá chắn đường.
Từ phần tử tiên tiến. Sau đó tự mãn không tiếp tục dưỡng rèn luyện để sau một thời gian lại trở thành phần tử chậm tiến lac hậu so với thời thế.
B- Quẻ: khởi = thủy/ hỏa
Dịch học Tàu gọi là vị tế là việc chưa xong.
Thủy mà ở trên hỏa là trái lẽ thường tức chưa “đâu vào đấy”.
Sự trái lẽ thường ấy khiến lại phải bắt đầu công việc nên đặt tên là quẻ Khởi, nghĩa là bắt đầu.
Vạn vật phát triển theo chu kỳ, nên điểm kết thúc chu kỳ trước lại là điểm khởi đầu của chu kỳ sau, cứ vậy chuyển biến mãi không ngừng.
a) Lời Quẻ:
Vị tế hanh – tiểu hồ ngật tế – nhu kỳ vĩ, vô du lợi.
Việc chưa xong, đúng theo qui luật phát triển, cải cách là quốc gia đại sự, tâm địa nhỏ nhen lưu manh vật vãnh (tiểu hồ) không thể đảm đương được, tâm địa đó cùng lắm chỉ là kẻ bám đuôi, “ăn theo” cách mạng, những kẻ đó chẳng lợi ích gì cho xã hội cả.
b) Lời tượng
Thủy tại hỏa thượng (ngược với Dịch học Thông hành) vị tế hay khởi, quân tử dĩ biện vật cư phương.
Xem tượng quẻ khởi, nước ở trên lửa là trái lẽ thường, bậc trưởng nhân phải thận trọng nghiên cứu sắp xếp nhân sự, đâu vào đấy để ai cũng phát huy được thế mạnh của mình, tức đạt mức tối ưu tronghiệu quả.
Chuyện tưởng đơn giản ai cũng hiểu, nhưng lại không phải vậy, ngay thời buổi này mà có chuyện tưởng như đùa; trí thức thì cho về nông thôn cày ruộng, còn nông dân bỏ đồng áng, công nhân bỏ xưởng máy để làm… lãnh đạo nên các ngài chăn dân cứ như chăn trâu…. Ai muốn hiểu biết thêm thì cứ đến Trung Quốc hỏi thăm lớp cựu Hồng vệ binh…
c) Lời tượng
c.1) Hào Sơ
Nhu kỳ vĩ, lận
Hào sơ chỉ thành phần thấp nhất, đầu óc kém cỏi nhất, chậm tiến nhất trong xã hội, bản thân họ chẳng biết cách mạng là gì – chỉ theo sau như cái đuôi bắt buộc phải theo cái thân vậy thôi.
c.2) Hào nhị
Duệ kỳ luân, trinh cát
Hãm bớt tốc độ, nhưng kiên quyết cải cách, tốt.
Các điều kiện của cải cách đã có đủ, nhưng vẫn phải thận trọng cải cách từng bước; để toàn xã hội đủ thời gian thích ứng với cơ chế mới, xong bước trước, rồi mới bước bước sau, ý chí cách mạng luôn vững vàng không chùn bước, tốt lắm.
c.3) Hào Tam
Vị tế, chinh lung, lợi thiệp đại xuyên
Vị tế là việc đang làm, cách mạng đổi mới là một quá trình liên tục, cải cách là để thăng tiến xã hội, nếu dùng bạo lực, coi cách mạng là chiến tranh để dành giật thì cực kỳ xấu.
c.4) Hào Tứ
Trinh cát, hối vong, chấn dụng phạt quỉ phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc.
Bền lòng theo đường công chính, mọi hối thẹn biến mất, chinh phạt quỷ phương làm chấn động thiên hạ, sau 3 năm được thiên tử phong là “đại chư hầu”, Hào từ này nói về bụng dạ và uy vũ của ông Tây Bá Xương bị Trụ Vương giam ở Diũ lý, Cơ Xương vẫn bền lòng theo đường công chính, thân khốn nhưng trí minh, ông đã viết nên Chu dịch, sau đó được Trụ Vương tha ra, chính ông đã chinh phạt nước “Quỷ phương” nghĩa là một nước ở phía Tây đất nhà Thương, ông được vua Trụ phong là Tây Bá Hầu, cai quản hết miền Tây Trung Hoa.
c.5) Hào Ngũ
Trinh cát, vô hối, quân tử chi quang, hữu phu, cát.
Hào ngũ chỉ địa vị tôn quí tức là vua.
Giữ chánh đạo được tốt lành, không phải hối thẹn điều gì, hào quang nơi bậc trưởng nhân đã ngời sáng.
Tự tin nơi mình, mọi việc tốt lành. Hào từ này nói về ông Cơ Xương hay Tây Bá Xương nổi tiếng là người có thánh đức, trong cuộc cạnh tranh giữa 2 thế lực, lòng dân đã ngã về ông, bỏ Trụ Vương, vậy mà ông không tiến công diệt Trụ để lên ngôi Thiên tử, đấy chính là quân tử chi quang; Trụ Vương không hề thức tỉnh càng ngày càng tác tệ luôn đến đời con Văn Vương là Vũ Vương đã phải thay cha hành đạo, lập nên nhà Chu và tôn vinh ông là Văn Vương. Tiếng Việt gọi là Văn Lang (lang = Vương). Vương hiệu là: An Dương Vương thực ra chính xác phải là Âm Dương Vương để chỉ việc ông viết Chu dịch.
c.6) Hào Thượng
Hữu phi, vu ẩm tửu, vô cữu, nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị.
Tự tin nơi mình, thảnh thơi nhấm nháp chút rượu không lỗi gì, còn tin chắc tối độ mù quáng để ngập đầu trong ăn chơi rượu chè thì phải coi chừng.
Hào thượng của quẻ khởi chính là lúc xong việc, xong việc chính là lúc phải cảnh giác, người ta rất dễ ngủ quên trên chiến thắng, sự ngủ quên này thường đưa đến những sai lầm khiến mình đánh mất chính mình, quân tử chi quang bị chìm mất trong biển rượu… tỉnh ra thì đã muộn vô phương cứu chữa.



Cặp Quẻ: Trung phu – Tiểu quá




image094

Trung phu là sự tin tưởng ở trong lòng hay lòng tin, có lòng tin
Tiểu quá có 3 nghĩa:
- Nghĩa một: chỉ có một số ít vượt qua được
- Nghĩa 2: chỉ có thể quá với những việc nhỏ.
- Nghĩa 3: chỉ có thể quá một chút (ít) thôi so sánh với quẻ đại quá.
Trung phu – tiểu quá
Di – Đại quá
Nếu chỉ với sự tin tưởng trong lòng thì chỉ một số ít vượt qua được còn muốn cho đa số quần chúng bước qua được thì phải nuôi (di) tức tạo ra cho đầy đủ các điều kiện vật chất, khiến thời cơ trở nên chín mùi, lúc đấy mới có quần chúng cách mạng.
Sở dĩ có cặp quẻ này là để chỉ bảo cho những người cách mạng, đừng phiêu lưu chủ quan, duy ý chí, quần chúng không theo là thất bại rồi đấy.
A- Quẻ Tiểu Quá = Lôi/ Sơn
a) Lời quẻ
Tiểu quá, hanh, lợi trinh, khả tiểu sự, bất khả đại sự, phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát.
Tiểu quá, hanh thông, lợi ích lâu dài. Chỉ dùng vào việc nhỏ như tang ma lễ nghi tiêu dùng ,không dùng vào việc quốc gia đại sự được, lòng tin chỉ như tiếng vỗ cánh của con chim trên trời cao, nào có cầm nắm thực sự ở trong tay ;đòi hỏi quá cao, phải hạ thấp mục tiêu ở mức thực tế mới có thể thực hiện – tốt lắm.
Cách mạng là sự đổi đời nên không thể chỉ có niềm tin mà làm được, vì cách mạng là sự nghiệp của toàn dân mà với lòng tin thì chỉ có một ít người dám vượt sông mà thôi, phải biết thức thời, điều chỉnh hạ thấp độ cao của mục tiêu xuống, để trở nên khả thi.
b) Lời tượng:
Sơn thượng hữu lôi, tiểu quá, quân tử dĩ hạnh quá hồ cung, tang quá hồ ai, dụng quá hồ kiện.
Sấm động trên đỉnh núi là tượng quẻ tiểu quá, động trên đỉnh núi là chỉ có số ít động mà thôi (động dưới chân núi mới là số đông chuyển động hay đại quá) bậc trưởng nhân phải hiểu chỉ một số ít thôi thì không thể làm chuyện to lớn như quốc gia đại sự, chỉ có thể thành công trong những việc vặt vãnh như đức hạnh quá khiêm cung, tang ma quá bi ai, tiêu dùng quá tiết kiệm mà thôi.
a) Lời Hào
c.1) Hào Sơ:
Phi điểu dĩ hung
Hào sơ chỉ sự khởi đầu hay non nớt; phi điểu dĩ hung là con chim non mà bay cao thực nguy hiểm, vì sức của nó chưa có thể làm nổi việc đó.
Muốn làm cách mạng để đổi đời thì phải biết chờ đợi thời cơ, thời cơ chưa có mà nôn nóng làm bừa như con chim non đã vội bay lên cao như thế là manh động hay hành động mù quáng ắt sẽ thất bại.
c.2) Hào nhị:
Quá kỳ tổ, ngộ kỳ tỷ, bất cập kỳ quân, ngộ kỳ thần, vô cữu.
Phải biết lượng định sức mình, nếu nhắc đến những mục tiêu quá cao vượt sức mình sẽ thất bại, phải biết thực tế điều chỉnh hạ thấp mục tiêu xuống để cơ thể hoàn thành.
Mong muốn thái quá định gặp ông tổ nhưng chỉ gặp nổi bà nội, không được gặp vua, chỉ gặp được quan, biết nhìn nhận thực tế khách quan đó thì không lỗi.
c.3) Hào tam:
Phất quá phòng chi, tòng hoặc tường chi, hung.
Phải ngăn ngừa quá đi từ lúc việc chưa xảy ra, đợi xảy ra rồi mới lo là đã trễ.
Có tổn hại rồi, xấu nghĩa cũng như câu: phòng bệnh hơn chữa bệnh vậy , đã mắc bệnh dù chữa khỏi cũng là tổn hại sức khỏe rồi.
c.4) Hào Tứ
Vô cữu, phất quá, ngộ chi, vãng lệ tất giới, vật dụng vĩnh trinh.
Không có lỗi (trong trường hợp đặc biệt) có thể quá một chút, tiến đến mức giới hạn rồi không được tiến thêm nữa; không thể luôn luôn “quá” như thế được.
Dịch dạy chúng ta cái thường thường nhưng không bỏ sót cái bất thường. Thí dụ như khi thiên tai địch họa ập đến để đối phó kịp thời ta có thể phá bỏ mọi quy luật thông thường…. Nhưng việc này chỉ có thể ở một lúc một nơi nào đó thôi, không thể kéo dài mãi được.
c.5) Hào ngũ
Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao ,công đặc thủ bị tại huyệt.
Ở phía Tây đất Giao tức đất của Tây bá nhà Chu sau này, uất khí đã ùn lên tận trời. Phải tấn công vào sào huyệt con ác thú mà thôi, con ác thú chỉ Trụ Vương, sào huyệt của hắn là Ân Đô. Người tấn công là Chu Vũ Vương, ông Cơ Phát đã thống lãnh dân quân đất phía Tây cùng với các chư hầu mở cuộc tấn công vào kinh đô nhà Ân Thương, chặt đầu Trụ Vương ở biệt đô triều ca.
c.6) Hào Thương
Phất ngộ quá chi, phi điểu ly chi, hung, thị vi tai sảnh.
Không biết đến chữ trung, cứ tiến đi mãi, như con chim phải bay quá xa ắt kiệt sức, nguy hiểm, hung họa tới nơi.
Không biết lượng sức định thời thế, không biết tự lượng sức mình, cố làm việc bất khả thi nên thất bại, thất bại thì tổn hại.
Hào từ này nói đến việc ông Cơ Xương khi nhà Ân Thương sai người giết Vương Quí cha ông, quá phẫn uất Cơ Xương đã không lượng sức mình đem quân đánh Trụ vương, kết quả thất bại thảm hại.
B- Quẻ Trung phu = Phong/ trạch
Trung phu là có lòng tin
Thấy mặt hồ gợn sóng ta tin là do gió thổi, có lòng tin vậy thôi chứ có ai thấy gió đâu, gió là thiên tượng nên không có hình (tại thiên thành tượng, tại địa thành hình).
a) Lời Quẻ
Trung phu, đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh.
Tin theo ngu như heo – cá, tốt dùng để cải cách xã hội, có lợi lâu dài.
Với tầng lớp mà trí óc chưa khai mở, chưa thể tự suy luận thì tin theo người trên là điều tốt, sự tin tưởng này có thể dùng để cải cách xã hội, xã hội tiến bộ mang lại lợi ích lâu dài.
b) Lời tượng:
Trạch thượng hữu phong, trung phu quân tử dĩ nghị ngục hoãn tử.
Trên quẻ trạch là quẻ phong, kết thành quẻ trung phu; bậc trưởng nhân xem tượng ấy, tiếp tục bàn bạc xét xử, hoãn thi hành án tử hình.
Chết thì không thể sửa đổi được nữa, vì vậy nếu chỉ là sự tin tưởng thôi không phải là nhân chứng vật chứng rành rành thì không thể vội vã phán tội được, nếu quả tang phạm pháp thì không nương tay nhưng ở đây chỉ tin như thế tức là chỉ thấy dấu hiệu của tội phạm để suy diễn quy kết mà thôi, nên bậc trưởng nhân phải hết sức thận trọng nghị bàn cho đến khi thấu suốt cặn kẽ mới phán quyết. Tránh tuyệt đối sự hàm oan vô phương cứu chữa.
c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ:
Ngu cát, hữu tha bất yên
Đầu óc non nớt cứ một mực tin theo bậc trên là tốt đẹp, nếu có ý khác đi thì bất an trong lòng.
Hào sơ ý chỉ thời còn non nớt phải tin theo sự chỉ dạy, dẫn giắt của cha anh, bậc trên nếu không như thế thì trong lòng không yên ổn vì đầu óc mình chưa đủ sức để suy nghĩ chín chắn.

c.2) Hào Nhị
Minh hạc tại âm, kỳ tử họa chi, ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mị chi.
Chỉ cần nghe tiếng hạc mẹ là cả đàn con họa theo, ta có bầu rượu ngon muốn cùng người chia xẻ, ý nghĩa là: Chu Dịch hàm chứa quy luật vận động của tự nhiên và xã hội, rượu ngon là ý nghĩa Dịch học, chia xẻ cùng người là ai ai cũng có thể vận dụng Dịch học để làm lợi cho bản thân và cho mọi người, minh hạc tại âm nghĩa là dù cho Văn Vương, Chu Công không còn nữa (Minh là bóng tối – ý là dù đã khuất) nhưng khi thấy những lời giáo huấn trong Dịch học thì các môn đồ hay đệ tử tin theo suy ngẫm và bắt chước theo hay học và làm theo.
c.3) Hào Tam
Đắc dịch, hoặc cổ, hoặc bãi hoặc khấp, hoặc ca.
Đắc dịch là tìm được trong Dịch học… Dịch học của người Tàu viết là: đắc địch nghĩa là được địch? … thắng quân địch… hay gặp quân địch… không hiểu nổi.
Đắc dịch: tìm thấy, tìm được trong dịch học điều tâm đắc:
· Hoặc cổ: sự cổ vũ khuyến khích làm việc tốt việc thiện việc đúng.
· Hoặc bãi: răn đe, ngăn cấm không được làm việc ác, việc lỗi đạo, xấu xa.
· Hoặc khấp; khấp là khóc ý nói: dịch học chỉ ra lý do thất bại.
· Hoặc ca: ca hát vui vẻ ý là: dịch học chỉ ra nguyên nhân thành công.
c.4) Hào tứ
Nguyệt cơ vọng, mã tất vong vô cữu.
Trăng rằm là ngày trăng tròn, trăng tròn báo hiệu là trăng sắp khuyết.
Ngựa sóng đôi cũng là lúc báo trước sẽ có con vượt lên, con lui lại. Đấy là lẽ tuần hoàn vơi đầy của trời đất, nào ai có lỗi gì. Lẽ đời lúc cực thịnh cũng chính là lúc bắt đầu đi xuống.
Ngựa sóng đôi là lúc chế độ xã hội hoàn toàn phù hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng cả 2 đâu có đứng yên, khoa học kỹ thuật tiếp tục phát triển tạo nên độ lệch và càng ngày càng lệch… độ lệch lớn đến một giới hạn sẽ phá vỡ kết cấu xã hội chuyển sang một hình thái xã hội mới phù hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật… cứ như thế cuộc tiến hóa tiếp tục .
c.5) Hào ngũ:
Hữu phu – luyến như – vô cữu.
Đức tín giúp người ta liên kết chặt chẽ với nhau – không lỗi gì.
Cùng tín ngưỡng thì có giáo hội, cùng chí hướng thì có hội đoàn, đảng phái cũng có thể hiểu là: với lòng chí thành vua có thể liên kết thiên hạ lại với nhau.
c.6) Hào thượng:
Hàn âm đăng vu thiên, trinh hung.
Nhiều học giả dẫn sách xưa chú giải: hàn âm là con gà dùng để tế lễ nơi tông miếu.
ở đây ta hiểu :Con gà bay lên trời cao, lâu dài như thế là xấu.
Gà là loài sống ở dưới đất bay lên trời chắc là chỉ trong chốc lát, làm sao có thể bay lâu được, kéo dài sẽ nguy hiểm.
Đặt niềm tin không đúng chỗ đúng đối tượng, tin gà bay vút lên trời cao là sai lầm không thể tha thứ, sẽ thất vọng mau chóng, mau mau tỉnh ngộ, rất nguy hiểm.



Cặp Quẻ : trao (giao) – đổi




image093

Nếu không có điểm tiếp giáp thì làm sao trao đổi được, không có chợ thì làm gì có mua bán, 2 vật không tiếp giáp thì làm sao có thể truyền nhiệt hay truyền điện qua được.
Dịch học họ Hùng có cặp quẻ: hoán đổi – tiếp giáp hay đổi – chác (giáp) chác là biến âm của giáp.
Dịch học Tàu có cặp quẻ cận âm khác nghĩa là cặp hoán – tiết, tiết có nghĩa là tiết chế, giảm bớt, hoán là hoán tán hay lìa tan.
Còn với dịch học họ Hùng cặp: Hoán – tiếp nghĩa là giao tiếp và chuyển đổi hay chuyển biến, thay đổi.
A- Quẻ giao (trao) thủy/ trạch
Thủy là nước là mây
Trạch là cái hồ
Mây mù giăng kín mặt hồ nối liền trời và đất, không còn thấy sự phân cách rõ ràng, nước trong hồ và mây mù trên mặt hồ hầu như hòa với nhau thành một.., thánh nhân lấy tượng ấy mà đặt thành quẻ tiếp hay giao tiếp – gặp gỡ.
a) Lời Quẻ
Quẻ giao tiếp, hanh, vương cách hữu miến, lợi thiệp đại xuyên lợi, trinh.
Giao tiếp thì được thông suốt - vua đến nhà Thái miếu tế lễ là để giao tiếp với các bậc tiên đế ở thế giới bên kia, giao tiếp với bên ngoài là để thúc đẩy sự phát triển mang lại lợi ích lâu dài cho quốc dân.
b) Lời tượng:
Trạch thượng hữu thủy; tiếp, tiên vương dĩ hưởng vu đế, lập miếu.
Lập miếu thờ làm nơi cúng tế là để giao tiếp với tổ tiên ở thế giới bên kia, mong các vị mở lối soi đường để nhà vua cai trị một cách sáng suốt khiến cho quốc thái dân an.

c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ
Bất xuất hộ đình, vô cữu.
Không ra khỏi cửa nhà thì không lỗi gì.
Bất xuất hộ đình là chỉ sự sống biệt lập, không nhìn thấy bất kỳ người nào khác và dĩ nhiên không giao tiếp với bất kì ai, bất xuất hộ đình cũng chỉ tình trạng bế quan để tịnh tâm, đóng cửa không tiếp xúc trong một thời gian là để tìm sự bình an, thanh tịnh cho tâm hồn, việc như thế thì không lỗi gì.
c.2) Hào Nhị
Bất xuất môn đình – hung
Không ra khỏi cổng nhà – Hung
Hào sơ chỉ sự bế quan – tịnh tâm thì không lỗi, đấy là một việc làm có tính tích cực, còn hào nhị chỉ một trạng thái khác hẳn thái độ ích kỷ, độc đinh, chỉ biết đến mình và gia đình mình, không ra khỏi cổng tức chỉ không giao tiếp thôi chứ vẫn nhìn thấy bên ngoài nhưng với thái độ bất can dự, sống chết mặc bay, tức thái độ ngày nay gọi là chủ nghĩa mặc kệ nó, thái độ sống đó xấu lắm, vì nếu anh chỉ biết sống một mình thì anh cũng sẽ chết chỉ có một mình.
c.3) Hào Tam
Bất tiếp, nhược tắc ta nhược, vô cữu.
Sống độc đinh, khi gặp tai họa mới hối hận, biết hối hận không lỗi.
Sống chỉ biết mình và gia đình mình không giao tiếp, không cần làng xóm gì khi bị tai nạn ập đến, như cháy nhà, ăn cướp liệu mình có thể tự cứu không, lúc đấy mới hối hận thì đã trễ, nếu biết sửa đổi thì không lỗi.
c.4) Hào Tứ
An tiếp – hanh
Giao tiếp một cách êm thấm, thông suốt mọi việc, hào từ này nếu dùng Việt ngữ có thể viết rất gọn là: êm suôi.
An tiếp chỉ sự giao tiếp có tính thân thiết, thông hiểu nhau của bạn bè – nên không có vướng mắc gì, mọi chuyện thông suốt.
c.5) Hào ngũ:
Cam tiết – cát – vãng hữu thượng.
Giao tiếp một cách vui vẻ, công việc tiến triển tốt đẹp.
c.6) Hào thượng:
Khổ tiếp – trinh hung, hối vong.
Giao tiếp khó khăn quá – cứ như thế thì nguy hiểm, sửa đổi đi thì khỏi ân hận.
B- Quẻ Đổi hay chuyển biến Phong/ thủy
Gió thổi trên mặt nước, là tượng của cái thuyền buồm, gió thổi vào cánh buồm làm cho con thuyền di chuyển được, lấy tượng ấy đặt thành quẻ đổi hay chuyển biến, hoán đổi.
a) Lời Quẻ:
Quẻ hoán, hanh, khổ hoán bất khả trinh
Chuyển đổi là để hanh thông, chuyển đổi khó khăn quá thì không thể lâu dài.
Hạ tầng vật chất kỹ thuật đã thay đổi nhưng vì quyền lợi riêng của mình có trì kéo không thay đổi chế độ xã hội, chắc chắn vị thế và quyền lợi của kẻ không thức thời sẽ tiêu tan khi cách mạng của quần chúng bùng nổ, nên lời quẻ nói: bất khả trinh.
b) Lời tượng:
Phong hành thủy thượng: hoán quân tử dĩ chế số độ, nghị đức hạnh.
Gió đi trên nước tạo ra sự thay đổi là tượng chiếc thuyền buồm di chuyển thế nên đặt tên là quẻ đổi hay hoán nhân sự hoán đổi bậc trưởng nhân chế ra độ số, để lượng định hay định lượng giá trị mà trao đổi, độ số là các số đo như ký, để đo sức nặng, thước để đo độ dài v.v…, xác định thế nào là cao quí, thế nào là thấp hèn, tức định tính để người dân hướng lòng vươn tới theo chiều ấy. Lợi tượng nói là: nghị đức hạnh, nghĩa là so chiếu đạo đức và phẩm hạnh của một con người dựa theo thang đạo đức xã hội để rút ra kết quả tốt hay xấu, đáng kính trọng hay đáng chê trách.
c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ
Dụng chửng mã, tráng, cát
Khuất phục được con ngựa chứng người đó chắc hết sức mạnh mẽ, sẽ gặp điều tốt đẹp.
Ngựa là loài dùng để đi, tức di chuyển, gặp con ngựa chứng là con cứng đầu không nghe theo người, khuất phục được nó để có thể cỡi đi chắc chắn phải là người khỏe mạnh cả thể xác lẫn tinh thần, như thế hết sức tốt đẹp.
c.2) Hào nhị
Hóan ; bôn kỳ kỷ, hối vong
Chuyển biến, phải chạy tìm nơi nương tựa, hối thẹn không còn.
Kỷ là cái ghế, cái ghế công dụng của nó là đỡ cho người ngồi.
Chuyển biến: trời đất chuyển biến chỉ thảm họa thiên tai, xã hội chuyển biến chỉ sự thay thời đổi thế.
Cái ghế là nơi có thể bám víu vào chịu đựng cho tai qua nạn khỏi, như là một ngọn cây trong cơn sóng tràn, một đỉnh đồi trong cơn hồng thủy.
Đấy là cái ghế dùng tránh thiên tai, còn nhân tài thì chỉ có thể bấu víu vào những gì do chính mình tạo ra lúc thịnh thời.
Vì vậykhi có điều kiện hãy thi ân bố đức, làm việc nhân nghĩa, cứu giúp người hoạn nạn chính là cái ghế cho ta dựa sau này khi “nhân tai” xảy đến.
c.3) Hào Tam
Hoán kỳ cung – vô hối.
Chuyển đổi từ trong thâm tâm mình. Làm gì còn phải hối thẹn nữa. Thay đổi từ trong thâm tâm là thay đổi triệt để nhất, một tấm lòng, đang đen tối chuyển thành trong sáng thì còn gì tốt hơn.
c.4) Hào Tứ
Hoán kỳ quần, nguyên cát, hoán hữu khâu, phỉ di sở tự.
Quần chúng cách mệnh (thay đổi) cực kỳ tốt, chuyển biến từng bước hay từng nấc không phải cái đầu bình thường mà nghĩ ra được (phỉ di sở tự).
Cuộc cách mạng không thể hoàn thành suôn sẻ trong một lần, mà từng bước tiến lên, đấy là hoán hữu khâu.
Khi đại đa số thấy không thể tiếp tục sống như cũ được nữa tất yếu xã hội phải thay đổi, tức cách mạng, cách mạng là thay đổi tận gốc rễ nên lời hào nói là nguyên.
Dịch học chỉ ra các giai đoạn chuyển đổi trong lịch sử loài người, lục vị thời thành có nghĩa là tuần tự theo thời gian sẽ có 6 lần chuyển đổi, 6 lần cách mạng… những cái đầu tầm thường thì làm sao nghĩ ra được như thế (phỉ di sở tư).
c.5) Hào Ngũ
Hoán, hãn kỳ đại hiệu, hoán vương cư, vô cữu.
Thay đổi danh xưng triều đại của vị hãn. Dời đổi thủ đô không lỗi.
Đây là một bằng chứng cực kỳ hiếm hoi về việc người Tàu gọi vua là Hãn hay Khả Hãn, họ đã dịch từ Vua sang Hán ngữ là “Hãn”.
Hãn kỳ đại hiệu… tên triều đại của “Khả hãn”.
Thí dụ: Tên triều đại của Khả Hãn lưu Tú là : Đông Hãn
Tên triều đại của Khả Hãn Tào Phi còn Tào Tháo là Ngụy (nghĩ là giả?)
Hào ngũ là vị trí của vua nên lời hào dành nói về vua chúa; trong đời một vị khả hãn, quan trọng nhất là 2 sự thay đổi, thay đổi tên triều đại (có lẽ dịch là niên hiệu thì đúng hơn) và thay đổi quốc đô. Hai sự thay đổi này chẳng phải lỗi lầm của vua mà do nhu cầu của việc quản trị đất nước (dời đô) và tránh đi thiên tai dịch họa.
c.6) Hào thượng
Hoán kỳ huyết, khử dịch xuất (khử thang xuất), vô cữu.
Hoán kỳ huyết, khử độc trong máu nghĩa là: thay máu, làm sạch vết thương khử dịch xuất là làm hết mủ nơi vết thương, hoán kỳ huyết có thể dịch là thay máu hay lọc máu.
Ý nghĩa là: chất độc đã nhiễm vào máu, nên không thể chỉ điều trị nơi miệng vết thương mà khỏi được, muốn khỏi phải điều trị tích cực, tận gốc bằng cách lọc máu hay thay máu.
Trị tận gốc là tìm nguyên nhân sâu xa bên trong, thay đổi nguyên nhân khiến hậu quả tự nhiên thay đổi.
Thí dụ: trộm cắp vặt nhiều quá là do thiếu đói không có công ăn việc làm, điều trị tích cực tận gốc là ngoài công an – toà án ra phải lo công ăn chuyện làm, nâng cao đời sống cho dân.
Thí dụ nữa:
Hiện tượng bùa chú, bói toán thờ cúng tràn lan có nguyên nhân sâu xa là: Dịch học ngành khoa học nền tảng là quy luật về sự biến đổi bị bọn lưu manh phù phép biến thành sách tà ma yêu thuật nói toàn chuyện quỉ thần và chuyên dùng để bói toán… Muốn chữa căn bệnh xã hội trên phải thay máu để trị tận gốc, nhà Chu đã dồn tâm trí của những bộ óc kiệt xuất nhất soạn thảo ra Chu dịch sau này thông qua Nho giáo và các nho sĩ mà tán phát tư duy khoa học ra toàn xã hội mong rằng từng bước chống lại, dần dần đè bẹp và sau cùng là tiêu diệt lề thói mê tín dị đoan, đấy đích thị là hoán kỳ huyết hay thay máu.



Cặp quẻ Đoài – Tốn hay Chứa – chan




image092

Đoài là tích chứa, chồng chất lên, tốn là tán, tản ra.
Đây là cặp quẻ đối xứng.
Trong Dịch học đã hàm chứa định luật bảo toàn năng lượng, không gì sinh ra, không gì mất đi tất cả chỉ là sự dời đổi, chuyển hóa.
Nếu có một bên tích tụ bắt buộc phải có bên phát tán. Có đi lên thì có đối xứng đi xuống. Có người lời thì phải có người lỗ. Có người mất ắt có người được….
Quẻ Thuần Đoài chỉ tri thức hay sự hiểu biết, tánh của nó là tích tụ vì tri thức hay sự hiểu biết luôn được các thế hệ sau kế thừa và phát huy, tăng thêm, đời sau và đời sau nữa vẫn thế.
Quẻ tốn chỉ việc sắp đặt, quản trị, đối với qui mô quốc gia là chính trị, tốn thực ra là biến âm của chữ tán, tản, tan nghĩa là càng văn minh thì quyền lực chính trị càng tán phát hay tản ra, tán phát hết mực là giao quyền về cho từng thành viên của xã hội tức mỗi công dân, tản quyền hết mức là dân chủ trực trị mọi người cùng nhau làm chủ…. Tự quyết định số phận của chính mình.
A- Quẻ chứa hay Đoài: Thuần đoài.
Hình tượng quẻ đoái là cái hồ, nơi tích trữ nước.
Cơ thể con người thì Đoài là cái đầu hay đầu óc nơi chứa trữ và xử lý thông tin.
a) Lời quẻ
Đoài, hanh lợi trinh
Quẻ Đoài là sự hiểu biết, hiểu biết về tự nhiên mang tính khách quan nên ở đây không có chữ nguyên.
Hanh, lợi, trinh là hợp lẽ, thiết thực và bền vững.
b) Lời tượng:
Lệ trạch, đoài, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập .
2 hồ mà thông nước với nhau cũng như 2 cái đầu truyền đạt thông tin cho nhau.
Bằng hữu giảng tập là bạn bè giúp nhau học tập, trao đổi bổ sung kiến thức cho nhau.
c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ:
Hòa – Đoài – cát
Tổng hợp những sự hiểu biết khác nhau lại hay kết hợp hài hòa mọi nguồn tri thức lại, rất tốt.
Kết hợp cổ truyền và hiện đại, kết hợp sự hiểu biết trong các lãnh vực khác nhau, hay tổng hợp những hiểu biết của mình và của người. Tất cả những kết hợp đó gọi là hòa đoài.
c.2) Hào nhị:
Phu đoài, cát, hối vong. Có lòng tin vào khoa học, tốt, không phải hối hận.
Khoa học là sự đúc kết các quy luật vận động, tin tưởng vào khoa học mới có thể khám phá tự nhiên và khai thác tự nhiên, rất tốt đẹp có gì phải hối hận.
c.3) Hào Tam
Lai, đoài, hung
Hiểu biết chưa tới nơi tới chốn, xấu. Cũng có thể dịch là: phải xét lại những đều đã biết. Tức là có thể đã có sai lầm đưa đến những hậu quả tai hại, thực nguy hiểm.
c.4) Hào Tứ
Thương Đoài, vị ninh, giới, tật, hữu hỷ .
phải luôn cân nhắc xem xét kỹ lưỡng, không được yên lòng vì những giới hạn và khuyết tật trong sự hiểu biết, như thế sẽ được vui mừng.
5/ Hào ngũ:
Phu vu bác, hữu lệ.
Tin vào những điều đã bị bác bỏ, thực đáng lo.
Khoa học luôn luôn tiến bước, việc phủ định những hiểu biết trước đó là chuyện thường, phải luôn cập nhật những hiểu biết nếu không sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng.
6/ Hào thượng: Cảnh, Đoài
Cảnh cáo khuynh hướng duy khoa học.
Có sách chép là: Dẫn, Đoài.
Ý nghĩa là: khoa học phải được dẫn dắt bởi đạo đức, lương tâm tức là phải định hướng phục vụ nhân sinh, nếu không có ngày loài người sẽ bị tiêu diệt bởi chính những phát minh của mình.
Đặc biệt các hào từ quẻ Đoài kết cấu ngôn ngữ rất lạ, từ Hoa nhưng cấu trúc Việt.
B- Quẻ Tán = Tốn/ Tốn cũng là chan; san
Tề hồ tốn, tức tản chỉ sự quản trị, quản trị từ đoàn thể nhỏ như gia đình tới đoàn thể lớn như thiên hạ, người lãnh đạo ra các mệnh lệnh để quản trị đoàn thể của mình nên trong quẻ tốn này: phần lớn quẻ dùng từ tốn với nghĩa là tính toán, sắp đặt.
Phần lời tượng và lời hào lại dùng với nghĩa là mệnh lệnh, sở dĩ vậy vì Dịch học hoàn chỉnh, ít ra cũng đã trên 3000 năm, lúc đấy ngôn ngữ khác xa bây giờ, vốn từ còn rất ít, nên một từ phải gánh vác rất nhiều nghĩa; lối hành văn cổ đối với chúng ta bây giờ là cực kỳ tối nghĩa, vì vậy chúng ta phải đọc Dịch lý với tinh thần hết sức thoáng đãng linh hoạt thì mới có thể hiểu đúng ý người xưa.
a) Lời quẻ:
Tốn, tiểu hanh, lợi hưu du vãng, lợi kiến đại nhân .
nghĩa là: tính toán, để thông suốt việc làm ăn (tiểu), dùng vào việc phát triển xã hội (lợi hữu du vãng) và nâng cao tầm vóc con người (lợi kiến đại nhân, kiến ở đây là kiến lập, kiến tạo)
b) Lời tượng:
Tùy phong, tốn, quân tử dĩ thân mệnh hành sự
Gió thổi liên tục là hình tượng quẻ tốn, bậc trưởng nhân theo đó mà ban bố mệnh lệnh thi hành chính sự.
Gió thổi khắp nơi ý nói truyền tải thông tin đến mọi nhà, bậc trưởng nhân ra các mệnh lệnh truyền đạt đi khắp nơi để thi hành chính sự hay việc quản trị quốc gia.
c/ Lời Hào
c.1) Hào Sơ
Tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh,
tiến lên hay thoái lui, quân lệnh như sơn, mệnh lệnh ban ra chắc chắn rắn rỏi như núi đá.
Quân lệnh nơi chiến trường buộc các chiến binh tuân hành tuyệt đối, mệnh lệnh dứt khoát rắn rỏi không thể chập chờn sáng nắng chiều mưa. Có như thế mới có thể chiến thắng.
c.2) Hào nhị:
Tốn tại sàng hạ, dụng sử vu phân nhược, cát, vô cữu.
Lệnh ban ra một cách vu vơ, không dựa trên một cơ sở nào, giống như những lời phán truyền của ông đồng bà cốt.
Trên sàng hay giường, hay giàn là mệnh lệnh dựa trên cơ sở lý luận khoa học chắc chắn, lệnh dưới sàng là lệnh vu vơ giống như những lệnh phán của ông đồng bà cốt hay thầy pháp bắt ma vậy, chữ cát, vô cữu ở đây không những thừa mà còn sai.
c.3) Hào Tam:
Tần tốn, lận
Lệnh lạc lung tung cả (biết theo lệnh nào); sai lầm lớn.
Lệnh rồi lại lệnh nữa, chưa thi hành lệnh trước đã ban hành lệnh sau.
Thực là loạn lệnh làm sao mà thi hành? Lệnh lạc như thế là sai lầm lớn của người lãnh đạo, chỉ huy vì cuối cùng sẽ không có lệnh nào được thi hành.
c.4) Hào Tứ
Hối vong, điền hoạch tam phẩm
Không phải áy náy gì nữa, việc thực thi các mệnh lệnh ban ra đã mang lại những thành tựu lớn lao.
Hào tứ chỉ sự thái quá, mệnh lệnh ban ra nhắm tới mục tiêu quá cao khiến phải áy náy, có phần lo lắng nhưng không sao, nhờ sự nỗ lực vượt bực đã có thành quả tuyệt vời.
c.5) Hào Ngũ
Trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sở hữu chung, tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát
Vững chí, bền lòng theo đuổi mục tiêu nên được tốt đẹp, mọi hối thẹn tiêu tan, không có gì là không lợi, khởi đầu công việc không thuận lợi, nhưng kết thúc tốt đẹp, lưu ý theo dõi một thời gian trước khi ban hành mệnh lệnh và sau khi thi hành, so sánh để thẩm định hiệu quả.
c.6) Hào thượng:
Tốn tại sàng hạ, tăng kỳ tư phủ, trinh hung.
Mệnh lệnh không có cơ sở khoa học, tổn thất nặng nề, cứ cái đà này thì vô cùng nguy hiểm.



Cặp quẻ Phong – Lưu




image091

Tên khác của cặp quẻ này là giam – giữ
Giam; phong là bao lại, che kín
Giữ; lưu là giữ, ở lại.
Giam, phong là cách lý; cô lập, nhốt lại.
Giữ, lưu là giữ lại, cầm chân tại chỗ
Giam giữ đồng nghĩa với giam cầm.
A- Phong (giam) Hỏa/ Sơn
Hỏa trên sơn là hình tượng quẻ phong, núi lửa đang phun, tro khói che cả ánh mặt trời, vì lẽ đó đặt tên là quẻ phong, phong ở đây là bao lại, che đi khác với quẻ Lôi Hỏa phong của Dịch học Tàu, phong nghĩa là phong thịnh, to lớn.
a) Lời Quẻ
Phong, Hanh, Vương cách chi, vật ưu, nghi nhật trung
Xảy ra nhật thực, mặt trời bị che khuất, vua phải làm lễ tế trời, đừng quá âu lo, dâng lễ đúng giữa trưa.
Cái gì bị che lấp mà vua âu lo phải vội vàng tế tự trời đất? Chắc chắn là hiện tượng nhật thực, cho là điểm báo chuyện chẳng lành, nên mới như thế, tế lễ lúc giữa trưa thì đích xác là tế trời, vì lúc đó mặt trời ở thiên đỉnh là lúc to lớn, suy mãn nhất.
Chữ Hanh ở đây không hiểu ý, phải chăng ngụ ý… muốn hanh thông vua phải…
b) Lời tượng:
Phong, quân tử dĩ chiết ngục trí hình.
Phong; bị che lập, bậc trưởng nhân vì tượng đó làm rõ tội trạng (đúng người, đúng tội) và thi hành hình phạt đích đáng.
Che lấp đi, giấu diếm đi hòng chạy tội, tiếp tục làm ác, nhưng không thể thoát được sự xét xử nghiêm minh của pháp luật, thế gian này mà có đầy dẫy bao công thì thiên hạ lo gì tội ác, lo gì không yên bình.

c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ:
Ngộ kỳ phối chủ, tuy tuần, vô cữu, vãng hữu thượng.
Gặp được người đang tìm để phối hợp, cũng ngang tầm (ngang nhau) không lỗi.
Bước tới là đi lên, chữ chủ ở đây là sự chủ ý, chủ tâm.
Hào sơ, đen tối vì mặt trời chưa mọc, ý chỉ thời con người còn hoang dã, đây là lúc những người có tâm huyết kết hợp lại để mưu cầu sự cải tiến cho xã hội, đưa nó đi lên, thoát khỏi tối tăm, tuy tầm nghĩa là đôi bên tương đắc.
c.2) Hào nhị:
Phong kỳ bộ, nhật trung kiến đẩu, vãng, đắc nghi tật, hữu phu phát nhược cát.
Mặt trời bị che khuất, trời tối sầm lại, giữa ban ngày mà nhìn thấy sao, nếu bỏ đi thì sợ bị ngờ vực, chỉ còn biết với lòng chí thành mong khải phát đạt hôn quân ám chúa.
Lúc ấy mọi việc lại tốt lành. Mặt trời bị che ý là ông vua bị bọn gian thần hay yêu nữ che mắt bịt miệng, tức triều chính đang bị khuynh đảo, bậc công thần yêu nước thương dân trước tình cảnh này phải xử trí sao đây. Bỏ đi thì sợ bị nghi ngờ về lòng trung thành khó mà thoát tội, chỉ có đường có thể can đảm liều thân lấy lòng chí thành can gián hầu mong vua thoát khỏi sự u tối, được thế thì vô cùng tốt đẹp.
c.3) Hào Tam:
Phong kỳ bái, nhật trung kiếm muội, chiết kỳ hữu quăng, vô cữu.
Bị đám cận thần giăng màn che kín, giữa ban ngày mà thấy đen thui, trong tình cảnh này, đành chặt bỏ cánh tay phải tức gạt bỏ các cận thần hữu dụng nhất xưa nay, có như thế mới không mắc lỗi lầm.
Hào tam khác hào nhị ở chổ: hào nhị là tâm sự của bậc tôi hiền trong tình cảnh quân vương trở nên hôn ám.
Còn hào tam là ngược lại, là tình cảnh của bậc minh chúa, buộc phải xử những tay chân thân cận nhất vì mưu toan bịt mắt vua hầu thừa nước đục thả câu….
c.4) Hào Tứ
Phong kỳ bộ, nhật trung kiến đẩu, ngộ kỳ di chủ cát
Việc tranh giành cướp ngôi khiến chính tình đen tối như đêm 30, đã gặp được và phò tá người có di mệnh kế tục ngôi vua, thực tốt lành.
c.5) Hào ngũ
Lai chương, hữu khánh dự, cát .
bóng tối đã qua đi, ánh sáng đã trở lại, mọi người vui mừng chúc tụng, thực tốt lành… gian thần, bạo chúa đều không còn, cái thiện đã thắng, ánh sáng văn minh lại chói lọi.

c.6) Hào Thượng:
Phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, hung.
Quây kín nhà mình, che chắn cho gia đình, liếc qua cửa, không thấy bóng người, 3 năm như thế, xấu lắm.
Muốn bảo toàn đặc quyền đặc lợi của bản thân và phe nhóm nên đóng cửa tuyệt giao với bên ngoài.
Hậu quả ra sao, ngày nay ai cũng đã biết thế nào là hậu quả của việc bế quan tỏa cảng, thời xa xưa đã xấu, thời nay hậu quả còn xấu hơn, nhân loại tiến vùn vụt còn mình dậm chân tại chỗ.
Chữ “địch” có lẽ viết sai của chữ “dịch”, tam tuế bất dịch là 3 năm không thay đổi gì.
B- Quẻ Lưu (giữ) = Lôi/ Hỏa
Giữ trong tiếng Việt là cứ nguyên như thế không thay đổi cả chất lẫn lượng, cả về vị trí lẫn tốc độ.
Lôi hỏa là tượng của “minh phạt sắc pháp” tức sự uy nghiệm,sáng suốt của luật pháp.
Lôi = tượng trưng của sự uy nghiêm
Hỏa = là sự sáng suốt
Lôi và hỏa là 2 tố chất bắt buộc phải có của nền luật pháp chân chính.
Sáng suốt để định đúng người đúng tội, không để xảy ra oan sai và cũng không để lọt lưới một trường hợp nào.
Lôi là sự uy nghiêm, trừng trị đích đáng xứng với những tội lỗi đã phạm những gì đã xảy ra.
a) Lời Quẻ
Lưu tiểu hanh, lưu trinh cát
2 chữ cùng là âm lưu nhưng khác nghĩa. Lưu tiểu hanh là giữ lại, chỉ thông suốt việc nhỏ.
Lưu trinh cát, chuyển động mãi tốt.
Lưu giữ là sự bảo tồn nguyên trạng.
Tấm hình ta lưu giữ được chỉ là sự lưu lại ở một điểm, một thời khắc nhất định. Trên chuỗi ảnh động liên tục (lưu trinh) như một tấm hình trích ra trong một đoạn băng video vậy.
b) Lời tượng:
Lưu, quân tử dĩ minh thận Dụng hình, nhi bất lưu ngục.
Quẻ lưu giữ, quân tử phải thận trọng và sáng suốt trong việc dùng hình phạt, không kéo dài quá đáng thời gian giam giữ.
Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại, câu trên đủ giúp ta hình dung ra tác động của sự tù tội nó ghê gớm đến chừng nào. Vì vậy bậc trưởng nhân có trách vụ cầm cân nảy mực phải hết sức công minh trong việc phán quyết hình phạt; Dịch học không hề bảo ta đừng lưu ngục vì phạm tội là phải chịu sự trừng phạt, có như thế mới bảo vệ được những người lương thiện, Dịch chỉ dạy ta đừng lưu ngục quá đáng thôi.
Tội đáng một năm thì tuyên hình phạt lưu giữ đúng một năm, không lưu thêm một ngày nào nữa, như thế mới là công minh.
c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ
Lưu, tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai
Cứ giữ thói ty tiện nhỏ nhen sớm muộn gì tai họa cũng đến, kẻ có tư cách như thế được điều này điều kia nhưng lâu dài chắc chắn sẽ thất bại vì mọi người sẽ lánh xa hắn ta.
c.2) Hào Nhị
Lưu tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh.
Lưu trú (ở) nơi đất khách hay sống lưu vong, còn giữ được nhiều của cải, có được gia nhân trung thành, phải kiên trì với chính đạo.
Sa cơ thất thế phải sống kiếp ăn nhờ ở đậu, nhưng may mắn vẫn giữ được tiền của và gia nhân vẫn một mực trung thành, như thế là chưa tuyệt đường, vẫn còn có cơ hội trở lại, phục hồi địa vị đừng sờn lòng.
c.3) Hào Tam
Lưu phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ.
Cháy nơi lưu ngụ (ở) mất hết tôi tớ, như thế thật đáng lo.
Nhà cháy dĩ nhiên cháy hết tài sản, hào tam là thời duy lợi…. Không có tiền thì đầy tớ nào phục vụ nữa, đấy cũng là chuyện thường tình ở đời có gì đâu mà lạ.
Không nơi cư trú, không tiền bạc, không tay chân đúng là cảnh thất sở thân sơ.
c.4) Hào tứ
Lưu vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái.
Tạm lưu cư, tìm lại được tài sản bị mất, dù vậy trong lòng vẫn không vui.
Không vui là vì vẫn phải ở tạm, chưa phải là địa vị chính thức của mình, theo chức vụ trong bậc thang hiện nay thì mới chỉ là “quyền” thôi, như quyền bộ trưởng, quyền giám đốc chứ chưa được chính thức, tại sao vậy vì hào tứ chỉ sự thái quá chưa đắc trung.
c.5) Hào ngũ:
Xạ trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh.
Muốn có một cuộc sống văn minh, trước hết phải nỗ lực làm việc, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư phát triển, sau cùng sẽ đạt được điều mong ước, để lại tiếng thơm đến muôn đời.
Trong Dịch học, chim trĩ tượng trưnng cho sự văn minh, xạ trĩ chỉ có nghĩa đích nhắm đến là cuộc sống văn minh. Nhất thỉ vong nếu dịch là mất một mũi tên...thì không ổn, vì tên đã trúng đích thì đâu có mất? Chỉ mất khi bắn trượt không thu hồi được.
Chung dĩ dự mệnh phải dịch đầy đủ là: sau cùng những nỗ lực của con người hợp sức với trời đất mà làm nên đại nghiệp hay tạo ra sự thành công lớn lao khiến lưu danh mãi mãi.

c.6) Hào thượng
Điểu phần kỳ sào, lưu nhân tiên tiếu, hậu hào đào, táng ngưu vu dị , hung.
Chim cháy mất tổ, con người mất nước, người sở tại, hay người ở đấy trước an cư lạc nghiệp, đời sống vui vẻ sung sướng biết bao nhiêu, sau lũ rợ dị tộc cướp mất tất cả (táng ngưu) thực là một thảm họa.
Hào từ này cũng là câu chuyện lịch sử của dân nhà Chu, 5 lần định cư năm lần phải rời bỏ quê hương kéo nhau đi chỗ khác sinh cơ lập nghiệp vì lũ rợ dị tộc ; sau cùng mới tụ cư ở Kỳ Sơn và trở nên hùng mạnh , trong hào tứ Dịch học họ Hùng đã dùng chữ Lưu với nghĩa là nơi ở nơi lưu trú, đồng nghĩa với quê hương.



Cặp quẻ tùng – Tiệm




image090


Dịch học của người Tàu gọi là tiệm – qui muội.
Tiệm là tiến từ từ tức là chậm.
Tùy là đi theo như gái theo chồng nên Dịch của Tàu mới gọi là quẻ quy muội nghĩa là gả con gái về nhà chồng.
Ý nghĩa cặp quẻ này là:
Như chủ nghĩa Marx nói: thượng tầng kiến trúc phải phù hợp với hạ tầng cơ sở hay trong Dịch học là: chế độ xã hội và trình độ kỹ thuật máy móc phải phù hợp với nhau.
Khi cái nền kỹ thuật máy móc được nâng lên thì chế độ kinh tế rồi chế độ chính trị phải phù hợp theo, nhưng thường do quyền lợi của một thành phần xã hội, luôn luôn có một lực trì kéo khiến chế độ xã hội luôn theo sau cả một quãng dài và sự chuyển đổi chỉ đến sau một biến cố long trời lở đất.
Ý cặp quẻ này là : nếu con người thụ động để khoa học kỹ thuật tiến một bước dài rồi chế độ xã hội mới chuyển đổi theo như thế là tiệm hay chậm, bệnh “chậm” này Dịch học gọi là bất cập, sự bất cập luôn đưa đến những tổn thất lãng phí tài nguyên và một bộ phận của xã hội phải chịu sự đè nén áp bức, nói chung là giảm bước tiến của nhân loại.
Tóm lại: tiệm – quy muội hay tùng – tiệm là thụ động tùy theo sức ép tình thế dẫn đến bất cập hay chậm. Con người phải biết vận dụng các quy luật phát triển trong Dịch học mà nắm lấy chữ đắc trung hay thời cơ v.v.. chủ động chuyển hóa chế độ xã hội, như vậy nhịp tiến mới nhanh hơn.
A- Quẻ chậm = phong/ Sơn
Chậm hay tiệm là lấy tượng phong sơn, gió thổi bị núi chặn lại nên tốc độ chậm chạp , từ từ
a) Lời quẻ:
Tiệm, chinh hung, vô du lợi.
Chậm chạp , không nắm được thời cơ nếu trong chiến trận thì thực nguy hiểm.
b) Lời tượng:
Sơn thượng hữu mộc, tiệm, quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục.
Quẻ tiệm, bậc trưởng nhân ăn ở hiền lành nhân đức, cải thiện phong hóa xã hội ngày một tốt đẹp hơn lên, ý lời tượng là quân tử lấy mình làm gương cho xã hội noi theo dần dần chuyển biến.
c) Lời Hào
Hào từ lại dùng chữ hồng hay chim hồng hạc tượng trưng cho trí tuệ, hồng màu đỏ, quẻ ly ngọn lửa, biểu tượng của sự sáng suốt – trí tuệ.
c.1) Hào Sơ
Hồng tiệm vu can, tiểu tử, lệ hữu ngôn vô cữu.
Hồng hạc tiến đến bờ nước, ý chỉ trí tuệ còn gần như thời nguyên thủy, như đầu óc trẻ con (tiểu tử), đáng lo ngại, có lời chê bai nhưng không lỗi gì.
c.2) Hào nhị:
Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn cát.
Chim hồng lạc tiến đến tảng đá bằng phẳng, nghĩa là trí tuệ đã phát triển một bước hết sức cơ bản: phát minh ra nông nghiệp làm căn bản cho sự tồn tại của loài người – thực tốt đẹp lắm.
c.3) Hào tam:
Hồng tiệm vụ lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung, lợi ngự khấu.
Chim hồng tiến đến miếng đất bằng phẳng, chồng đi đánh giặc chưa hề về nhà, vợ lại có bầu… nhưng bỏ con không nuôi, nguy hiểm, chỉ có thể dùng vào việc đánh giặc.
Chữ Lục ở đây là biến âm của từ lộc nghĩa là lợi ích vật chất.
Đầu óc chỉ biết có lợi lộc, chồng đi vắng, vợ có bầu rồi bỏ con như thế là bất trung, bất nghĩa và bất nhân, đấy là đầu óc của doanh gia theo đạo thờ tiền, dạng người này chỉ có thể dùng vào việc đánh giặc và thưởng tiền không thể dùng vào những việc khác.
c.4) Hào Tứ
Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ giác vô cữu.
Hào tứ luôn chỉ sự thái quá, hồng hạc bay lên cây, đậu được ở một cành cao, không lỗi gì.
Đầu óc suy tưởng vượt quá thời đại lại là một “cái đầu” cần thiết, đâu có lỗi gì, đẹp như con chim trên cành cao.
c.5) Hào ngũ:
Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng, chung mạc chi thắng, cát.
Chim hồng lạc tiến lên đỉnh đồi cao (dù chồng không có ở nhà) người vợ vẫn một lòng kiên trinh thủy chung, sau cùng sẽ vượt thắng mọi cản trở , vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc, hết sức tốt đẹp.
Trí tuệ đã phát triển đến đỉnh cao, ngang tầm với trí tuệ là nền phong hóa đạo đức xã hội tốt đẹp cao cả, với người tài đức vẹn toàn cuối cùng bao giờ cũng thành công tốt đẹp mọi mặt.
c.6) Hào thượng:
Hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát.
Hồng hạc đã về với đất mẹ mà lông của nó vẫn còn được dùng hóa trang trong các nghi thức cúng tế thần linh và tổ tiên, tốt đẹp vô cùng.
Người có đầu óc vĩ đại thì không bao giờ chết vì những gì họ để lại còn ở mãi với đời sau.
Trong Dịch học họ Hùng có 2 con vật được trọn một quẻ: con rồng chiếm trọn quẻ Kiền, con chim Hồng hay Hồng hạc chiếm trọn quẻ Tiệm.
Con rồng tượng trưng cho chí khí của một người, nhờ chí khí mà khẳng định chính mình với người khác và với trời và đất.
Con hồng hạc tượng trưng cho trí tuệ hay đầu óc, con người vượt lên trên tất cả động vật khác nhờ cái đầu hiểu biết, phát minh và quyết định đều là nhờ có trí tuệ.
Rồng tượng trưng cho nhân đức
Hồng hạc tượng trưng cho tài ba .
Nhưng ở Dịch học thông hành và cả trong ý kiến xã hội người ta chỉ nhấn mạnh tới con rồng mà xem nhẹ chim hồng hạc, chỉ riêng Dịch học họ Hùng và đạo Khổng là có sự cân bằng, một bên là đức một bên là tài, một bên là tâm một bên là trí phối hợp cân bằng.
Sự mất cân đối trong quan niệm trên khiến người xưa có hẳn một triết lý sống rất lệch lạc… “an bần lạc đạo” ngày nay đã đến lúc chúng ta phải đổi lại… “phồn hoa, lạc đạo”, tại sao cứ phải an bần mới lạc đạo?
Tâm và trí đâu có đối kháng một mất một còn để phải hoặc chọn cái này hoặc chọn cái kia?
Tư tưởng an bần lạc ở thời cận đại có phần đóng góp rất quan trọng vào sự lạc hậu về khoa học kỹ thuật của phương Đông ngày nay.
Các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo đã nhìn thấy vấn đề và đang điều chỉnh, đúng là sai một ly đi một dặm, không biết bao lâu nữa mới có thể đuổi kịp các nước Âu Mỹ.
B- Quẻ tùng hay qui muội = lôi/ trạch
Hành động dựa trên sự hiểu biết đấy là tượng quẻ tùng , tức theo hay đi theo, có tiến bộ khoa học kỹ thuật mở đường thì mới có thể cải cách xã hội, thể chế nào thì có cơ sở vật chất kỹ thuật của thể chế đó, đấy là ý nghĩa “tòng” của dịch học.
a) Lời quẻ:
Nữ quy, cát, lợi trinh,
quẻ tùng; gái theo chồng, tốt, ích lợi dài lâu.
Dương theo âm (nghịch với người Tàu), vợ theo chồng, tài phải theo đức, trí tuệ phải được sự dẫn dắt của lương tâm, triều đình phải theo sự chỉ đạo của vua đấy là đạo tòng hay tùng của tự nhiên thuận theo trời thì tốt đẹp, hưởng lợi ích lâu dài.
b) Lời tượng:
Lôi trạch quy muội – tùng quân tử dĩ viễn tiểu nhân – bất ác nhi nghiêm
Tiểu nhân là hạng tâm địa nhỏ nhen , đấy là điều xấu nhưng đâu có vi phạm pháp luật nên đâu có thể …làm gì nó ., tốt nhất là không nên gần chúng, với thái độ nghiêm cẩn thì tiểu nhân cũng chẳng trổ mòi gì được, thái độ đó là đúng mực, Dịch không dạy ta làm ác dù với cả lũ tiểu nhân, chỉ phòng ngừa là chính.
c) Lời Hào
c.1) Hào Sơ
Quy muội dĩ đệ, phả năng lý chinh cát.
Theo chồng làm vợ bé, què cũng có thể đi được, chinh chiến thì tốt.
Quan niệm vợ chồng cổ xưa của người Việt, chồng lo bon chen công danh sự nghiệp hay là làm ăn ở ngoài còn việc trong nhà gọi là tề gia nội trợ do vợ đảm nhiệm, chính vì vậy người vợ còn được gọi là “nội tướng”.
Nhưng ở Hào Sơ, người đàn bà tư chất kém cỏi hay sức lực yếu đuối tới độ không thể tự đứng, tự đi mà phải dựa cả vào chồng, tựa như người vợ bé không có quyền hành gì cả chỉ biết một lòng tuân phục, sự phục tùng tuyệt đối nếu ở chiến trường lại rất tốt, tướng hô nằm là nằm, lệnh xông lên là xông lên không sợ hiểm nguy.
c.2) Hào nhị:
Diếu năng thị, lợi u nhân chi trinh
mắt bị hư mà vẫn biết đường đi đó là nhờ “theo chồng” chồng đi đâu dắt mình đi theo đấy, người đàn bà trí lực kém cỏi cứ theo chồng mà sống.
Hào nhị khác hào sơ ở chỗ hào nhị chỉ theo chồng, còn hào sơ phải vừa theo vừa dựa vào chồng thì mới đi được, một đàng chỉ không quyết được đường đi, còn Hào sơ thì vừa không biết đường đi vừa không đủ sức lực để đi.
Quan điểm này là của thời đã qua, còn hiện nay thiếu gì đàn bà làm “lãnh đạo” thiếu gì đàn ông phải tòng phụ (theo vợ).
Chữ u trong u nhân là từ việt nghĩa là u tối, u biến âm của ô là màu đen.
c.3) Hào Tam
Qui muội dĩ tu, phản qui dĩ đệ
Lấy chồng tưởng được làm vợ chánh, té ra là chỉ làm bé cho người ta mà thôi.
Hào Tam chủ lợi, người chồng thờ tiền không dám giao việc tề gia cho vợ … sợ vợ cuỗm mất tiền bạc thì sao… nên hóa ra vợ cũng như con ở mà thôi… không có quyền hành gì cả dù là việc trong gia đình,
c.4) Hào tứ:
Qui muội: khiên kỳ thi qui hữu hối.
Lỡ mất chuyến tàu rồi, đành chậm lại quay về chờ dịp khác.
Thời vận đến mà do không sẵn sàng nên đã để nó trôi qua không nắm bắt được, thôi đành chậm lại chờ dịp khác…, hào này chỉ mượn chuyện theo chồng để nói mọi chuyện, việc gì cũng vậy thôi không sẵn sàng thì cơ hội trôi qua, đó là quy luật chung.
c.5) Hào ngũ
Đế ất qui muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ, nguyệt cơ vọng, cát.
Con gái đế ất về nhà chồng, trang phục bề ngoài vợ chánh mà còn thua vợ lẽ, điều ấy thể hiện bên trong đức hạnh sáng như trăng rằm, tốt lắm.
Con gái nhà quyền quí mà bề ngoài bình dị, không xe xua, khoe khoang thể hiện một bề trong đức hạnh sáng như trăng rằm, trăng sáng dùng chỉ đức hạnh phụ nữ, ngược lại ánh sáng mặt trời chỉ đức độ của nam giới, trăng tròn có nghĩa là đức hạnh vẹn toàn.
c.6) Hào thượng
Nữ thừa khuông, vô thực sỉ, sĩ khuê dương, vô huyết, vô du lợi.
Nữ cầm giỏ nhưng trong không có cái gì để cúng, nam cắt tiết con dê để lấy máu thề nhưng chẳng có giọt nào… như thế chẳng được ơn ích gì.
Kết hôn mà chẳng bên nào thực lòng, bị ép buộc hay tính lợi dụng nhau mà thôi, cả thành và tín đều không có, bất thành vì không có trái cây, bất tín vì không có máu dê, như thế thánh thầy nào chứng giám? Làm gì có ơn ích mà đòi hưởng. Thực là cuộc hôn nhân của trai giang hồ lấy gái lầu xanh.