Nhãn

Hiển thị các bài đăng có nhãn Sử Hùng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sử Hùng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2025

Thế thứ các đời vua Hùng -Việt (bản hiệu chỉnh 2025)


Niên đại

Sử Thiên Hạ

Sử Hùng Việt

Sử liệu dân gian

ghi chú


Sau Tam hoàng là thời Ngũ đế .

< 10000 TCN
đời Hùng vương thứ 1

Phục Hy

Hùng Dương

Thái Cao – vua Cả

Tổ phụ chi Đông- Động

10000 TCN
đời Hùng vương thứ 2

Thần Nông

Hùng Hiển

Thái Viêm

Tổ phụ chi La -
Lửa

đời Hùng vương thứ 3

Thiếu Hạo

Hùng Nghị - Bảo lang

Thái Khang

Tổ phụ chi
Tư - Định

đời Hùng vương thứ 4

Chuyên Húc

Hùng Diệp-Quan lang

Thái Tiết - Vụ Tiên

Tổ phụ chi
Nước - Lạc

3000 TCN
đời Hùng vương thứ 5

Hoàng đế - Hiên viên

Hùng Vũ- Hiền lang-đế Minh

Thái Công - vua Hùng ,vua cha ngọc hoàng thượng đế

kiến lập Hữu Hùng quốc - -
Quốc tổ


Thời Tam vương






3000 TCN
đời Hùng vương thứ 6

Nghiêu đế

Hùng Anh -Viêm lang – Kinh dương vương I

GiaoThường-Nam triều thánh tổ Ngọc hoàng Thượng đế , Nam bang triệu tổ

nước Xích qủy - Thủy

đời Hùng vương thứ 7

Thuấ́n đế

Hùng Lạc - Lâm lang – Kinh dương vương II

Diêu trọng hóa

cõi Nam Giao

2200 TCN
đời Hùng vương thứ 8

Đại Vũ ,

Hùng Việt-Tuấn lang – Kinh dương vương III

Sơn tinh - Tản viên sơn thánh quốc chúa đại vương - Cao Mật

kiến lập vương quốc họ Hùng


Thời Tam đại






2200 - 1600 TCN
đời Hùng vương thứ 9

đế Khải - Hạ vũ






Bá Ích

Hùng Hoa
- Hải lang

Khải - Khởi (bắt đầu)






nước Di Hạ lang – Dạ lang

Nhà Hạ , đô Dương thành
Quảng Đông


Dạ lang ở Qúy châu

3600 - 3400 TCN
đời Hùng vương thứ 10

Thành Thang

Hùng Huy
– Long tiên lang

Lang Thang

Nhà Thương
đô thành can Tân

1400 - 1100 TCN
đời Hùng vương thứ 11

Bàn Canh

Hùng Uy
– Hoàng hải lang

Hoài Di

Nhà Thương Ân
Bàn long thành
*nước Dạ lang , câu Ngô, câu Tiến , câu Đinh ở
Hoa Nam

1100 -TCN
đời Hùng vương thứ 12

Châu Văn vương

Hùng Chiêu
– quốc tiên lang

Lăng Xương ( lang)
An Dương vương


Văn lang – Âu Lạc
đô Phong châu

1100-770 TCN
đời Hùng vương thứ 13

Châu Vũ vương

Hùng Ninh
– Thừa Văn lang

Linh lang
bà Nghi ̣Điệt

*Tây Châu
đô Kiểu kinh

770 -256 TCN
đời Hùng vương thứ 14

Châu Bình vương

Hùng Tạo vương Đức quân lang


Đông châu
đô Lạc Ấp



220 - 206 TCN
đời Hùng vương thứ 15

Tần Thủy hoàng

Hùng Định - Chân lang

Đinh tiên hoàng
*Lang sói

đế quốc Tần-
*Tần diệt Châu
*Triệu Đà diệt An dương vương

206 TCN - 111 TCN
đời Hùng vương thứ 16










111TCN - 9 SCN
đời Hùng vương thứ 17

Hiếu Cao tổ -


Nam Việt vũ






Thiền vu Hung nô Mao Dun


Hiếu Vũ đế

Hùng Trịnh - Hưng đức lang
Triệu Đà












Hùng Triệu vương Cảnh Triệu lang

lang Ba - lang Bang


Lý Nam đế






Mao Dun đối thủ Lưu Bang


Lưu Triệt

Hưng quốc


nước Nam Việt ở Phiên Ngung




đế quốc Hung nô đô Mông cổ


nhà Hiếu đô ở Trường An

9 - 23 SCN
đời Hùng vương thứ 18

Vương Mãng
- Vãn đế

Hùng Duệ
- Duệ lang

Vãn đế (vãn lả hết)
duệ ( kéo dài)

nhà Tân ,
đô Trường An

Vương Mãng cải cách thiết lập xã hội lý tưởng theo Nho giáo khiến cả xã hội trở nên rối loạn tột cùng , chính sách Vương Mãng phân biệt chủng tộc hạ thấp địa vị người Hung nô không đứng ngang hàng với người họ Hùng , đổi tước vương của lãnh đạo Hung nô thành tước hầu , và đặc biệt ...cấm họ Lưu làm quan thực ra là triệt hạ thế lực người Liêu 1 nhánh của Hung nô đang có vai vế trong chính quyền của triều đại Lưu Bang
Tức nước vỡ bờ đám qúy tộc Liêu quy tụ thành Lục lâm thảo khấu nổi loạn , trộm cướp đắc thời đánh bại quân nhà Tân giết Vương Mãng , rồi tôn tướng cướp Lưu Huyền là Hán Canh thủy , tướng cướp Lưu Tú là Hán Quang vũ của chúng kiến lập Hán quốc ,
Lưu Tú - Quang vũ đế kéo quân Hán đánh bại giết Kiến thế đế và thủ lãnh Phàn Sùng của nghĩa quân Xích My rồi lần lượt chiếm đóng từ Bắc xuống Nam Thiên hạ ,
Năm 42 SCN quân Hán chiếm Giao chỉ ; Hữu Hùng quốc diệt vong chấm dứt 18 đời Hùng vương .

Phục hưng lần 1


184 SCN -205 SCN

Khởi nghĩa Khăn Vàng

*bà Trưng
*bà Triệu – Triệu quốc Đạt



Khu Liên

*nước Hùng Lạc
*Lâm ấp


Thời đại chiến Bách Việt và Bách Man .


- Bách Man thuộc Huyền thiên .

các nhánh của Đông Hán phân rã thành ,

*Viên Thiệu cầm đầu chi Hán ,

*Tào Tháo cầm đầu Tào Nguỵ ; tào ngụy sát nghĩa phải dịch là ‘giặc Tầu’.

*Đổng Trác cầm đầu đám rợ Khương phía Tây Bắc ; đổng trác không phải là tên và họ mà là phiên thiết của Đác tức giặc Thát bạt .

* Nhánh Tấn thực ra là Tây Hán của họ Tư Mã . Tây hán thiết tấn


- Bách Việt ở Viêm thiên .

Viêm thiên cũng là vùng Viêm nhiệt ; viêm nhiệt thiết Việt

Khởi nghĩa Khăn Vàng tuy thất bại nhanh chóng nhưng đã đưa đến 2 cuộc khởi nghĩa khác sau đó cuả .

* Tôn Kiên – Tôn Quyền ở Đông Nam Thiên hạ kiến lập nước Ngô

* Phía Tây Nam Lí Thiên Bảo và Lí Phật tử cũng nổi dậy thành công kiến lập nước Thục

Sử Trung quốc gọi thời này là Tam quốc ,

Sử thuyết Hùng Việt gọi là Thời - lưỡng quốc kháng Ngụy


221–263

Lưu Biểu – Lưu Bị
Lưu Huyền đức

Lý Thiên Bảo –
Lý Phật tử

Kiểu (cửu) công
-hậu Lí Nam đế



Nước Thục

222–280

Tôn Kiên


Tôn Quyền

Dương Đình Nghệ
– Ngô Quyền

Dương công


Ngô Tôn Quyền





Nước Ngô






Thời Nô lệ Hán quốc lần 2 - Tào Ngụy , Tấn chiếm Ngô và Bắc Thục

Hung nô chiếm và làm chủ Thiên hạ cho ̣đến khoảng năm 494 SCN thì Hiếu Văn đế say mê văn minh Thiên hạ bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ 1 triều đại Hung nô thành triều đại của người họ Hùng cụ thể :
– Đổi sang họ Hán : Nguỵ Thư, Quan Thị Chí, ghi 118 họ dân tộc Hồ đổi sang họ Hán ; như họ tôn thất Thác Bạt đổi thành Nguyên , họ Độc Cô đổi thành Lưu .
– Bỏ tiếng Tiên Ty, dùng Hán Ngữ ; nếu bắt gặp dùng chữ Tiên Ty bị giáng chức quan.
– Thông hôn : cổ vũ thông hôn với thế gia Hán tộc.
– Giáo dục : thờ Khổng Tử, tôn Nho học ; thiết lập nhà Thái Học.
Việc triều chính dựa theo Châu lễ
Từ năm 557 tới năm 581. Cơ sở quyền lực của nhà Bắc Chu được Vũ Văn Thái, một viên đại tướng nhà Tây Ngụy,xét theo danh xưng thì rất có thể ông là người họ hùng ;(Vũ chính là kí âm từ vua của Việ̃t ngữ) thiết lập sau khi nước Bắc Ngụy chia thành Tây Ngụy và Đông Ngụy vào năm 535.
năm 556 SCN Vũ văn Giác con của Vũ văn Thái chiếm quyền vua Tây Ngụy lập ra nước Bắc Châu
năm 572 Vũ văn Ung được lịch sử công nhận là Bắc châu vũ đế nắm quyền đã diệt 

Bắc tề thống nhất Thiên hạ lập ra triều đại Bắc Châu mới , định đô ở Trường an.

557–581

vũ văn Ung – Bắc Châu vũ đế

Đinh Hoàn – (hoàng)


Triều chính Châu lễ

581–618

Nhà Tùy –
Dương Kiên

Dương Tam ca
(kha)

lầm lẫn với Lê Đại Hành

nước Tùy – Sủy - Sở

618–907

Nhà Đường –
Lý Uyên

Lý công Uẩn

hậu duệ : Lão tử

Đường – tiền Lý

690 - 705

Võ tắc Thiên ,

Ỷ Lan thái phi

hậu duệ : Cơ Xương

Nhà Võ Châu

Thời Bắc Thiên hạ 5 đời giặc
Nam 10 nước










713 - 722


Mai Hắc đế


Thành Vạn an -Nghệ An

738 - 902

Nam Chiếu







Phùng Hưng - bố cái đại vương II (Nam Chúa)


-Con : Phùng An –


-em : Phùng Hải

nước :Mông – Lễ - Đại Lí


-nước Hoàn vương-Chàm

880-894




905 – 911


917 - 941

- Lưu tri Khiêm




- Lưu Ẩn


-Lưu Nhâm
Nam Hán cao tổ

Khúc thừa Dụ - ông Cụ


Khúc Hạo tiết độ sứ - ông Cậu
Khúc thừa Mỹ
- ông Cả

Ngô xương văn -
Ngô văn xương
Ngô vương

Hưng vương
phủ
-Đại Việt
–Đại Hưng

960 –1279

Triệu Khuông Dận
Tống thái tổ


lập nước Tống ở phía Bắc

Tống chiếm Đông Đại Hưng

Từ 1115 – nay

*Hung nô chiếm gần trọn Thiên hạ








Thiên hạ hoá thành Trung quốc của Rợ :






các triều Nguyên – Minh – Thanh

Thời Đại Hưng -Đại Việt Tự chủ
971 – 1945




Đồng thời khoảng Sau 1200









*Mông cổ rút chạy khỏi Đông Nam Á

Nhà Lý ,
-Trần,
-Hồ ,
-Lê ,
-Nguyễn



*Đông Nam Á Hình thành Các nước mới hậu Mông cổ

-Lý thái tổ
-Trần thái tông
-Hồ qúy Ly
-Lê thái tổ
-Gia Long
-Minh Mạng

Đại Hưng - Đại Việt
- Đại Ngu
-Đại Việt
-Việt nam
-Đại Nam


- nước Lỗ xưa thành Thái – Lào.

- nước Yên xưa thành Chămpa

- nước Tề xưa thành Phù Nam - Chân lạp

1867 - 1945 


1945 – 1954



1954 - 1975


-thực dân Pháp cai trị 


- kháng chiến
chống Pháp


- nội chiến





2 nước Việt Nam





- Bắc Việt Nam
-Nam Việt Nam

1975 nay


Tự chủ

Dân quốc

Việt Nam Thống nhất


Hữu Hùng quốc phục hưng vinh quang từ Năm 1967 dưới danh xưng ASEAN hiệp hội các nước Đông Nam Á .

Hiện bao gồm các phần :


- đất Đông Châu xưa nay là Việt Nam .

- Nước Yên sau là Chiêm nay thuộc Việt Nam

- Nước Lỗ nay là Thái – Xiêm và Lào hay Lão qua .

- Nước Tề nay là Campuchea và Malaysia trước là Chân Lạp – Miên và Phù Nam

ngoài ra Asean còn có :

- Myama trước là Miến hậu thân của nước Đốn Tốn – Điền Tuấn

- Indonesia còn gọi là Chà và hay Sri Vijaja – Qua oa

- Philipines là Lữ Tống xưa


Và các nước


- Nước Singapor tân lập

- Nước Brunei tân lập

- Nước Đông Timor tân lập


Chủ Nhật, 5 tháng 11, 2023

Xem lại lịch sứ Đại Hưng quốc

 Năm 1009 có  cây gạo ở làng Diên Uẩn bị sét đánh ,Theo ghi chép của sử sách (Việt sử lượcĐại Việt sử ký toàn thưViệt sử tiêu ánKhâm định Việt sử thông giám cương mục) thì tại chỗ sét đánh trên thân cây hiện ra bài thơ sấm ngôn nói đến nhiều đời vua trong lịch sử Trung đại nước Việt .

Việt sử lược, bộ sử cổ nhất Việt Nam, chép nội dung bài thơ chỉ có 8 câu:

樹根杳杳

木表青青

禾刀木落

十八子成

震宮見日

兑宮隠星

六七年間

天下太平

Phiên âm:

Thụ căn điểu điểu

Mộc biểu thanh thanh

Hòa đao mộc lạc

Thập bát tử thành

Chấn cung kiến nhật

Đoài cung ẩn tinh

Lục thất niên gian

Thiên hạ thái bình

Các sách sử đời sau như Đại Việt sử ký toàn thưViệt sử tiêu ánKhâm định Việt sử thông giám cương mục chép thêm 2 câu nữa:

東阿入地 (Đông a nhập địa)

木異再生 (Mộc dị tái sinh)

vào trước câu "Chấn cung kiến nhật", thành bài thơ gồm 10 câu. Dịch nghĩa bài thơ như sau:

Gốc rễ thăm thẳm

Ngọn cây xanh xanh

Dao chặt cây rụng

Mười tám hạt thành

Cành đâm xuống đất

Cây khác lại sinh

Đông mặt trời mọc

Tây sao náu mình

Khoảng sáu, bảy năm

Thiên hạ thái bình


Chia bài thơ thành 2 cột để  phân tích

Những câu nói về:

Triều Tây nước Đại Việt

 Những câu  nói về:

Triều Đông nước Đại Việt

 - 樹根杳杳

           Thụ căn điểu điểu

           Gốc rễ thăm thẳm

 

 - 木表青青
             Mộc biểu thanh thanh
             Ngọn cây xanh xanh
(thanh chỉ Thanh hải quân) 

-十八子成
Thập bát tử thành (họ  Lý)
          Mười tám hạt thành

(Thập bát tử- họ  Lý)

 -禾刀木落
Hòa đao mộc lạc         

Dao chặt cây rụng

 (Hòa đao mộc-họ Lê)

 -兑宮隠星
Đoài cung ẩn tinh
          Tây sao náu mình

- 震宮見日
Chấn cung kiến nhật
          Đông mặt trời mọc

( thời kinh đô Phiên Ngung)

 - 木異再生
           Mộc dị tái sinh
Cây khác lại sinh
(lập triều Đinh - phía Tây)

 - 東阿入地
           Đông a nhập địa
Cành đâm xuống đất
(quân Tống chiếm nước)

 -天下太平
Thiên hạ thái bình
Thiên hạ thái bình

 - 六七年間
Lục thất niên gian
Khoảng sáu bảy năm


Ngoài nghĩa đen đã dịch sang  Việt ngữ như trên , dân gian và giới nghiên cứu đã chỉ ra  Ẩn nghĩa của của 1 số từ trong bài thơ :
*  Câu 3: chữ Hòa () + chữ Đao () + chữ Mộc () ghép lại thành chữ Lê ().
*Câu 4: chữ Thập () + chữ Bát () + chữ Tử () ghép lại thành chữ Lý ().
*Câu 7 : chữ Đông () ghép với chữ A () thành chữ Trần () .
 Theo kiến gỉai phổ biến hiện nay  bài thơ được giải mã mang nội dung tiên đoán việc nhà Lý... ‘Thập bát tử thành’ nối tiếp sau  khi nhà tiền Lê của vua Lê đại Hành  chấm dứt  ...“Hòa đao mộc lạc” .
Bài thơ đã liệt kê các triều đạị nối tiếp nhau trong lịch sử Việt nam từ thời tiền Lê  qua nhà Lí , nhà Trần mãi cho tới thời hậu Lê của vua Lê Lợi .

Cành đâm xuống đất
Cây khác lại sinh
Khoảng sáu bảy năm
Thiên hạ thái bình

Nếu Hoa sen 8 lá ứng vào 8 đời vua nhà Lý ở Thăng long thành thuộc Phong châu tức đất phía Tây thì 5 đời vua Lê ở vế trên phải  ứng với 4 đời vua Đại Việt – Đại Hưng cộng với vì chúa tạo dựng nhưng không xưng vương : Lê Ẩn ( phải chăng Hán sử đã biến họ Lê thành họ Lưu ?) ở Hưng vương phủ – Quảng châu kinh đô nước Đại Việt – Đại Hưng thời triều đình phía đông ?.
Nhắc lại đoạn sử thời khai sinh Đại Việt :

Lưu Ẩn và Lưu Nham là con của Lưu Khiêm , Lưu Khiêm còn gọi  là Lưu tri Khiêm thứ sử Phong châu , Lưu tri Khiêm mất con là Lưu Ẩn kế thừa làm thứ sử Phong châu .
Lưu Ẩn và em là Lưu Nham từ Phong châu tiến chiếm  Lưỡng Quảng mở rộng đất đai thống thuộc , năm 905 nhà Đường chính thức phong Lưu Ẩn làm Thanh hải quân tiết độ sứ , cuối đời Đường loạn lạc khắp cả miền lĩnh Nam người xưng tướng kẻ xưng vương  riêng Lưu Ẩn vẫn không xưng vương kiến quốc .
Năm 907 Lưu Ẩn mất em là Lưu Nham kế vị , năm 917 Lưu Nham lập nên nước Đại Việt đóng đô ở Đại Hưng thành - Quảng Châu ở Quảng Đông .
Nhà Tống xua quân tiến đánh Đại Việt , năm 971 thì chiếm được kinh đô Quảng châu , triều Đông nước Đại Việt chấm dứt , nếu kể cả ‘tiên quân’ là Lưu Ẩn thì Đại Việt phía Đông sau cải là Đại Hưng có 5 đời vua , tồn tại 67 năm từ 905 đến 971  .
Theo phép phiên thiết Hán văn thì : Lưu Tri thiết LY như vậy họ Lưu trong sử Tàu chỉ là ...kí âm ‘đểu’ , chính xác : Lưu Tri thiết Li ; Li→Lê hay Lý mới phải .
Cha là Lê Khiêm thì con phải là Lê Ẩn – Lê Nham , vua Đại Việt không có ai họ Lưu ...đây chính là 5 đời vua nhà Lê trong bài sấm và câu đối ở đình Dương Lôi – Bắc ninh .
Phân tích bài thơ sấm trên cây gạo ...Tổng cộng 10 câu gom thành 5 đôi , 1 chẵn 1 lẻ ý đối xứng rất rõ ; bên nói nền bên nói ngọn , vế nói mất vế nói ra đời , vế nói Đông vế nói Tây ...
Cụ thể :
Ngọn cây xanh xanh ...nhà Lê - Lưu tri ở Đông Đại Việt là phần ngọn phía Đông mọc lên từ cái gốc nhà Lý ở Phong châu phía Tây .

Nhìn vào biểu trên ... Hòa đao mộc ghép thành nhà Lê nằm ở cột phía Đông đối xứng với ... Thập bát tử ghép thành Lý ở bên cột Tây .
Chấn cung kiến nhật... lúc vua và triều đình đóng ở Quảng Đông thì đấng anh tài Phong châu bên Tây  [Đinh bộ] – [ Lĩnh] đang náu mình ẩn thân ... Đoài cung ẩn tinh.
Đông a nhập địa …đặc biệt Đông a trong sấm không chỉ nhà Trần như số đông hiện nay hiểu mà chỉ quân nhà Tống do Phan Mỹ (Phan Mỹ thiết phỉ chỉ giặc cướp) cầm đầu tiến chiếm Hưng vương phủ kinh đô phía đông Đại Việt , ý trong bài chỉ rõ sự nối liền lập tức 2 sự kiện Đông a nhập địa và Mộc dị tái sinh – Cây khác mọc lên , 2 câu này không thể kể là nói đến nhà Trần sau đó là nhà Hậu Lê vì tổ tiên nhà Trần từ Phúc Kiến đến sinh sống trên đất Việt ...nhập địa đã nhiều đời trước lâu lắm rồi mới dựng nên nhà Trần hoàn toàn không đúng với ý Đông a nhập địa thì Mộc dị tái sinh , quân Tống – Đông a nhập địa chiếm đất diệt triều đình Đại Việt phía Đông thì Lập tức người Việt lập ra triều đình ở phía Tây trên đất Phong châu – Giao chỉ mới đúng ý 2 câu thơ trên .
Lục thất niên gian không phải là khoảng 6 -7 năm mà là nói đến thời gian ‘sáu mươi bảy’ năm tồn tại của triều Đại Việt đô ở quảng Đông từ  905 đến 971 sau CN .
Thiên hạ thái bình ý nói vương quốc đại Việt vững bền từ đây dù có sóng gió nhỏ nhưng về cơ bản Việt nam tồn tại độc lập từ thời [Đinh bộ] – [Lĩnh] dựng  triều cho đến mãi về sau [trừ 10 -20 năm gian khổ chống quân nhà Minh xâm lược và vài ngày quân nhà Thanh ...thăm viếng kinh thành Thăng long] .

Vấn đề nữa cuả thời kỳ này phải bàn :
Sách Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) ngoài chuyện chú chó con có chữ Thiên tử trên còn nói đến truyền thuyết về cây gạo đầu làng Cổ Pháp bị sét đánh nứt đôi, bên trong có chữ đề:

Góc chùa cây cả trực trời
Lại có chữ bày Hưng Quốc chi niên.
Rồi Lý Khánh Văn nhân đó đoán:
Điềm này nghiệm đến sự trời
Nào ai tuổi Tuất ấy người làm vua
Lên đền một mối tay thu
Chữ Hưng Quốc ấy ắt là thiên nguyên.

Rồi khi Lý Công Uẩn lên ngôi:
Thùy y củng thủ cửu trùng
Cải nguyên Hưng Quốc đề phong trong ngoài
Hoa Lư hiểm địa hẹp hòi
Xa giá bèn dời về ở Thăng Long.

Như vậy sách Thiên Nam ngữ lục cho ta một thông tin rõ ràng: Hưng Quốc từng là tên nước ta thời kỳ đầu triều Lý, gắn liền với Lý Công Uẩn và việc dời đô ra Thăng Long. Nước ta đầu triều Lý có tên là Hưng Quốc. Đây là quốc hiệu chưa từng được nói đến trong chính sử.

Thông tin này giúp củng cố luận điểm nước đại Việt ban đầu đô ở phiên Ngung hay Phiên Ngô sau đổi quốc hiệu thành Đại Hưng không có đại Hán đại Hung nào ở đây .

Nhà Lý sau khi chính thức xưng vương định đô ở Giao Chỉ phía Tây đã bỏ tên nước Đại Hưng lấy lại quốc hiệu  Đại Việt ban đầu .

Thông tin trong sử cũ Sử cũ :Đại Cồ Việt (chữ Hán: 大瞿越, 968 – 1054) là quốc hiệu của Việt Nam dưới thời bảy vị vua trị vì thuộc ba triều đại: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý ...e  rằng không chính xác .

 Xét ra Cồ Việt cũng là Đại Việt ; cồ tiếng Việt nay ít dùng có nghĩa là to - lớn như chuyện gà Ri gà Cồ nghĩa là gà to gà nhỏ vậy , Cồ Việt và Đại Việt là một nói cho dễ hiểu thì cồ Việt la tên  Nôm , đại Việt là tên chữ thế thôi tức không có chuyện đổi tên nước Cồ Việt thành Đại Việt như sử cũ chép ..

Dựa vào những điểm trên Sử thuyết Hùng Việt cho Lí công Uẩn – Lí thái tổ chính là Đinh bộ Lĩnh tức Đinh bộ Lí khắc Chính phò mã nhà Lê nước Đại Việt Đại Hưng kinh đô ở Phiên Ngung và Lí đức Chính – Lí thái tông là Đinh Liễn tức Đinh Lí Tiến cháu ngoại vua Đại Hưng .
Sách Lĩnh ngoại đại đáp đời Tống viết : Năm thứ ba niên hiệu Đại Trung Tường Phù, Chí Trung chết , có con mới mười tuổi, Lý Công Uẩn giả xưng họ Lê, giết đi, tự xưng Lưu Hậu, báo sứ giả xin mệnh lệnh, trao cho họ Lê chức quan. Công Uẩn chết, con là Đức Chính lập…
Đức Chính chết, con là Nhật Tôn lập, tự xưng là Hoàng đế thứ ba của họ Lý nước Đại Việt…

Thông tin :Năm thứ ba niên hiệu Đại Trung Tường Phù, Chí Trung chết , có con mới mười tuổi, Lý Công Uẩn giả xưng họ Lê, giết đi, tự xưng Lưu Hậu,là thông tin ngụy tạo nhưng đoạn sách cũng cung cấp thông tin quan trọng cùa nhà Lý Việt Nam : 2 vua đầu nhà Lý mang họ Lê , phải tới đời thứ 3 mới xưng họ Lý ,
Công Uẩn họ Lê nên con là Đức Chính cũng phải họ Lê .
Đức Chính được tôn thụy hiệu là Đại hành hoàng đế .
Phối hợp 2 dòng tin trên đưa đến kết luận không thể khác : Đức Chính chính là Lê đại Hành và là Hoàng đế thứ nhì nhà Lý Việt nam .
Khám phá : Đức Chính vua thứ nhì nhà Lý chính là vua Lê đại Hành mà sử ‘cũ’ gọi là nhà Tiền Lê là thông tin mang tính quyết định để từ mấu chốt đó xét lại toàn bộ sử nhà Lý :
Lê đại Hành kế ngôi Đinh bộ Lĩnh thì Đinh bộ Lĩnh chính là Công Uẩn chứ không thể ai khác . Công là tước nhưng Uẩn không phải là tên tục của vua , vua sinh ra ở làng Diên Uẩn châu Cổ pháp , nên người ta gọi theo phép kính trọng là Công Uẩn nghĩa là vị mang tước công sinh ra ở Diên Uẩn .

Sử viết vua đại Việt - đại Hán ở Phiên Ngu Quảng đông phái phò mã là Lí Khắc Chính và con là Lí Tiến sang cai trị nước Việt  .

Đây là sự sai lầm cơ bản của sử gia phong kiến Việt Nam ,:

  Vì kinh đô Phiên Ngung không nằm trong lãnh thổ đại Việt nhà Lý nên ắt  Hán phải xem là  nước ngoài và Lí khắc Chính và Lí Tiến là quan được phái sang cai trị nước ...ta .

Sử thuết Hùng Việt vân dụng phép Phiên thiết Hán văn đã chỉ ra :

Lí khắc Chính cũng là Lí Chính ; lí chính thiết Lĩnh chính là tên của Đinh bộ Lĩnh

Lí Tiến thiết Liễn là Đinh Liễn vua thứ nhì nhà Lí cũng chính là Lê đại Hành

Tóm lại :

Bài thơ ‘sét đánh cây gạo’ thời Lý nhìn theo góc nhìn mới hoàn toàn không phải là Sấm ký tiên đoán lịch sử nước Việt  mà chính là lịch sử chân xác của nước Đại Việt với 2 giai đoạn kinh đô ở phía Đông và Tây , có thể vì lý do nào đó hoặc do bối cảnh chính trị lúc đó tác gỉa không thể nói thực , viết ra đoạn sử chân xác  mà phải gửi cho đời sau văn bản ở dạng mã hóa để đến 1 lúc nào đó con cháu gỉai mã nhận ra 1 giai đoạn lịch sử dân tộc hoàn toàn khác với dòng sử chính thống  .

Nước Đại Việt manh nha  khởi lập từ những năm 905 , chính thức tuyên cáo cùng Thiên hạ năm 917 , kinh đô ban đầu đặt ở thành Phiên Ngu Quảng châu nay thuộc Quảng Đông , triều  Đại Việt sau đổi quốc hiệu là Đại Hưng  phía đông có 5 đời vua họ Lê không phải họ Lưu như Hán sử chép  tồn tại 67 năm cho đến khi bị quan binh nhà Tống đánh chiếm . Người Việt đã lập triều đại mới ở phía Tây trên đất Giao chỉ gọi là Đinh triều , Đinh là dịch tượng chỉ phía Tây nối tiếp quốc thống Đại Việt , sử Việt gọi là 8 đời vua nhà Lý . Đinh Định Tịnh chỉ sự không đổi phía Tây - tử ngược với phía Đông sống động .

Bài thơ “sét đánh cây gạo” đã khẳng định Triều Lý Đại Việt là sự tiếp nối triều nhà Lê ở thành Phiên Ngu  lập nên sau khi   bị Tống quốc chiếm mất nửa lãnh thổ phía Đông . Phần  Đại Việt trên đất Giao chỉ tồn tại đến ngày nay với quốc hiệu Việt Nam .

Kinh đô phiên Ngung phía Đông của nước Đại Việt xác định Lưỡng Quảng xưa là đất Việt , vùng Biển Nam  lưỡng Quảng ngàn năm nay về mặt lịch sử vẫn là biển của người Việt , mọi dẫn chứng lươn lẹo của ...ai đó đều là dối trá lừa gạt .