Tổ tiên nhà Tần là ông Bá Ế, ông tổ nghề chăn nuôi, có tài thuần phục chim muông, được Ất Sơn Đế Thuấn ban cho họ Doanh. Đến thời Lang Liêu, Tạo Phủ đánh xe ngựa cho Chu Mục Vương mà được phong ở Triệu thành, nên dòng dõi Tần lấy Triệu làm họ.
Nhãn
- Dịch học Việt (55)
- Linh tinh (140)
- Sử - địa (167)
- Sử Hùng Việt (66)
- Tham khảo (155)
- Tham khảo 2 (150)
- Tham khảo 3 (153)
- Tham khảo 4 (13)
- Thời cuộc (7)
- Tổng hợp (73)
- Trang đầu (25)
- V hóa V minh (33)
Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2023
LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG – TẦN VIỆT NHÂN DUYÊN
Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2023
LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG – ĐÔNG CHU PHONG VŨ
nguồn :https://www.facebook.com/hashtag/lichsuhungvuong
Nhớ xưa Văn Vương lập chính, phục chúng bốn phương, Võ Vương cái thế, phạt Trụ diệt Ân, phân phong Bách Việt chư hầu. Tây có nước Tề của Khương Thái Công, nước Lỗ của Chu Công. Bắc xưa có nước Yên của Thiệu Công, nước Phù Nam của Phan Công. Đông có nước Ngô, nước Tống. Nam xưa có nước Sở và đất đai cũ phong cho hậu duệ nhà Ân Thương. Vùng xa xôi là đất Tấn, Tần…
Nhà Chu truyền tới Mục Vương, Tây chinh Nam phục, cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn tìm cung điện ngọc của Hoàng Đế mà gặp Tây Vương Mẫu. Sử Việt kể Hùng Vương thứ 7 là Lang Liêu, lên núi Tam Đảo lập đàn cầu tiên, 7 ngày 7 đêm thì được thần nhân báo mộng mà gặp Tiên giáng ở trang Đông Lộ dưới chân núi Tây Thiên.
Tới thời U Vương ham mê Bao Tự, triều chính rối loạn. Vùng Tam Xuyên (tức vùng Bắc Việt ngày nay nơi 3 sông Đà Lô Thao hội tụ) có động đất lớn. Đất Lạc rung chuyển. Thái sử Lý Bá Dương, người quê Kim Chân ở Hà Nam – Ninh Bình nhân đó lập Chiên đàn ở núi Thất Diệu bên cạnh Lạc thành, nhắc lại sự việc Đát Kỷ thời Trụ Vương nhà Ân qua chuyện Bạch Kê tinh, Ma Cô Tiên, để răn dạy vua Chu. U Vương không nghe theo. Lão Tử biết nhà Chu sắp vong nên rời bỏ thành Cổ Loa mà đi về phía Tây, chắc hẳn là đi gặp các vị Lang Liêu khai triều Tây – Thục thời Văn Vương, Võ Vương.
Không lâu sau, U Vương sủng ái Bao Tự, đánh mất đạo lý trời đất âm dương của bánh chưng bánh dày từ Hậu Tắc, khinh thường các anh em chư hầu Bách Việt. Triều Tây Chu – Lang Liêu vong. Hai mươi hai người anh em tranh giành nhau làm trưởng, mỗi người dựng hàng rào bằng gỗ để che kín, phòng vệ.Thiên hạ chuyển sang thời các liệt quốc Xuân Thu xưng bá chư hầu. Vua Chu Bình Vương lánh nạn dời đô về phía Đông, đóng ở Lạc Dương thành. Sử Việt gọi là An Dương Vương dời đô xây thành Cổ Loa.
Câu đối ở đình Thổ Hà, nơi tu hành của Lão Tử Lý Bá Dương:
Đông Chu phong vũ thị hà thì, biệt bả thanh hư khai Đạo giáo
Nam Việt sơn hà duy thử địa, độc truyền ảo hóa tác thần tiên.
Dịch nghĩa:
Mưa gió Đông Chu đây một thời, riêng giữ thanh hư, mở Đạo Giáo
Núi sông Nam Việt chỉ đất đó, một truyền màu nhiệm, tạo Thần Tiên.





Thứ Tư, 14 tháng 6, 2023
LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG – TRỊ BÌNH KIẾN PHU
đăng lại từ : https://huvi.wordpress.com/wp-admin/post.php?post=7366&action=edit
Âu Cơ Xương đánh thắng Lạc Long Sùng Lãm, về đóng đô ở Phong châu, lấy tên nước là Âu – Lạc. Thiên hạ lúc này chia làm 2, một nửa thuộc về Thục Vương Cơ Xương, một nửa thuộc về Hùng Duệ Vương (Ân Trụ Vương). Vì thế Trụ Vương đã xuất đội quân thiện chiến nhất của mình, tổng lực tấn công nước Văn Lang – Âu Lạc nhằm lấy lại nửa thiên hạ đã mất. Cầm đầu quân đội nhà Ân là Thạch Linh Thần tướng cùng với 28 tướng cường nữ nhung, kéo quân đóng chật một vùng Vũ Ninh…Văn Vương Cơ Xương vô cùng lo lắng, một hôm đi dạo ngoài bến sông Việt Trì, bỗng gặp một lão tiên ông, tay cầm cần trúc, đứng trên tảng đá hình con rùa ở bên sông như có ý chờ đợi. Đó là Lã Vọng, người quê Đông Hải, tức biển Đông, nay là đất Thanh Hóa, gần bãi biển Sầm Sơn. Văn Vương hỏi chuyện, mới biết đây là một bậc kỳ tài, bèn mời về phong Khương Tử Nha làm Thừa tướng, cầm đầu quân đội nhà Thục chống giặc Ân.
Khương Thừa tướng phát động binh sĩ, tuyển chọn tướng tài chống giặc. Vị tướng nổi tiếng nhất của Văn Lang là cậu bé làng Phù Đổng, bà mẹ mang thai 3 năm mới sinh ra, không biết nói cười, khi nghe lời hiệu triệu của Văn Lang đã xung phong làm tướng dẫn đầu xuất trận.
Cơ Xương mất bên bờ Hiền Lương. Con là Cơ Phát lên nối vị, sử Việt gọi là Thục Phán. Cơ Phát khi chưa lên ngôi còn có tên là Ninh Vương, nên truyền thuyết có địa danh Vũ Ninh, nơi xảy ra trận chiến chống giặc Ân.
Quảng cáo
Trận đánh thần thánh của Khương Tử Nha và Na Tra Thái tử chống lại Thạch Linh thần tướng diễn ra ác liệt dưới chân núi Châu Sơn – Vũ Ninh. Kết quả là Ân Hậu Thạch Linh cùng nữ tướng Ân Ma Cô Tiên tử trận dưới chân núi… Người đời sau lập đền thờ phụng…
Thắng được trận đánh quyết định trên “sân nhà”, Khương Tử Nha kêu gọi các chư hầu bốn phương, hẹn ước cùng nhau tiến vào kinh đô Triều Ca. Trụ Vương thất thế cùng đường, nhảy vào ngọn lửa ở Lộc Đài mà tự vẫn. Lạc triều chấm dứt từ đây, Thiên hạ chuyển sang Thục triều.
Khương Tử Nha trở về núi Vệ Linh ở Sóc Sơn, lập đàn tế các tướng sĩ của cả 2 phía đã hy sinh trong cuộc chiến Hùng – Thục, Ân – Chu, phong bách thần để muôn đời thờ phụng. Tướng tiên phong Na Tra bay lên trời, trở thành thần núi Sóc Sơn, có nhiều hiển ứng về sau.
Thục Phán về núi Nghĩa Lĩnh, lập đàn dựng cột đá thề trung thành với Quốc tổ họ Hùng, tức Đế Minh Hữu Hùng Hiên Viên. Cơ Phát đăng quang ngôi vị Thiên tử của Thiên hạ Trung Hoa, xưng là Vũ Vương. Truy phong cho cha Cơ Xương là Văn Vương – Văn Lang.
Vũ Vương xét công những người anh em trong tôn thất nhà Chu và các tướng lĩnh tham gia trong đại nghiệp phạt Trụ diệt Ân, phong tước phân đất và cho quyền thế tập. Trăm chư hầu được phân phong trấn giữ các nơi đầu núi góc biển, là tổ của trăm họ Bách Việt vậy.
Quảng cáo
Vũ Vương dời đô từ đất Phong về đất Cảo ở Vân Nam, tức đất Âu – Ai Lao xưa. Phần đất Lạc Dương phía Đông giao cho Chu Công cai quản. Nước Văn Lang của Thiên tử Chu có Bắc giáp Hồ Nam, Tây giáp Xuyên Thục, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp biển Động Đình. Đất đai chia thành 15 bộ. Tất nhiên, nước của thiên tử Văn Lang là nước lớn nhất trong trăm nước Bách Việt.
Bắt đầu từ Văn Vương – Vũ Vương lập nên nhà Chu – Thục, lịch sử Trung Hoa bước vào thời kỳ phong ấp kiến địa (phong kiến), 1 thiên tử 100 chư hầu. Hùng Vương Thánh Tổ ngọc phả gọi thời kỳ này là Trị bình kiến phu, tức là Trị quốc, Bình thiên hạ, Kiến lập chư hầu. Vị vua Hùng khai triều Chu Thục là Hùng Quốc Vương, người con trưởng của Âu Cơ.
Sổ thiên niên vương tá thủy chung, phụ tử quân thần khai chửng điểm
Thập ngũ bộ thiên phân thảo dã, sơn hà nhật nguyệt cộng trường tồn.
Dịch:
Mấy ngàn năm giúp đế trước sau, cha con vua tôi mở nơi cứu giúp
Mười lăm bộ trời chia đồng nội, núi sông ngày tháng cùng nhau mãi còn.





LỊCH SỬ HÙNG VƯƠNG – ÂU CƠ VÀ SÙNG LÃM
đăng lại từ https://www.facebook.com/hungvietsuquan/?fref=ts
Kinh triều 18 nhánh truyền đến Hùng Duệ Vương nhà Ân Thương thì biên giới phía Bắc đã vượt Hoàng Hà. Ân Trụ Vương đóng đô ở Triều Ca, phía Bắc tỉnh Hà Nam. Trên vùng đất Lạc xưa, thủ lĩnh lúc này là một vị quân hầu dòng dõi Lạc Long Quân, được biết trong sử Việt với cái tên Sùng Lãm.
Họ Sùng bắt nguồn từ ông Sùng bá Cổn, là cha của Đại Vũ Sơn Tinh. Ông Cổn trị thủy không thành, đã bị Đế Nghiêu xử tử, thay bằng con là ông Vũ. Ông Vũ nhờ vận dụng sáng tạo kiến thức trong Hà đồ Lạc thư – Gậy thần Sách ước đã đục thông dòng Hắc Thủy, khơi cho nước trở về biển Đông. Ông Vũ được Đế Thuấn trao cho quyền thiên hạ, mà sử Việt gọi là Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương nên cũng mang họ Sùng, truyền cuối thời Kinh triều tới Sùng Lãm, là hầu bá vùng đất Lạc phương Nam xưa.
Trong truyền thuyết Việt, Sùng Lãm còn có tên là Cao Sơn vì chữ Sùng cũng có nghĩa là Cao. Cao Sơn là vị Tả kiên thần trong Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, có công trạng lớn nhất là chống giặc Thục thời Hùng Duệ Vương. Giặc Thục lúc này chính là dòng Âu Cơ, nên truyền thuyết mới chép thành Âu Cơ lấy Lạc Long Quân, húy Sùng Lãm.
Âu Cơ có tổ tiên là ông Hậu Tắc, được sử Việt kể dưới tên Đế Lai. Khi Lạc Long Quân lên ngôi đã đánh đuổi chính dòng Đế Nghi là Đế Lai ra khỏi vùng đất Lạc. Dòng dõi Hậu Tắc phải di dời về phía Tây, đến sinh sống ở vùng đất Âu – Ai Lao, tức vùng Vân Nam, Quý Châu. Tới thời Ân Thương, dòng tộc này trở nên lớn mạnh. Thủ lĩnh người Di Lão lúc này là Cơ Xương, là Tây bá hầu của nhà Ân. Cơ Xương ở đất Âu được sử Việt gọi là Âu Cơ. Phía Tây cũng đồng nghĩa với Thục và đất Quý Châu là Ba Thục nên Âu Cơ còn là Thục chủ trong truyền thuyết thời Hùng Duệ Vương.
Truyền thuyết kể, Thục chủ đã phát động một cuộc tấn công lớn hàng chục vạn quân, chia làm 5 đạo, đánh vào đất Lạc. Tướng giữ vùng đất Lạc là Cao Sơn Sùng Lãm chống trả quyết liệt, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Hùng Duệ Vương được khuyên nhường ngôi lại cho Thục chủ. Thục chủ Âu Cơ về lại đất tổ, lập đô ở Phong Châu. Do có sự kết hợp của 2 vùng đất Âu (Vân Nam, Quý Châu) và Lạc (Bắc Việt, Quảng Tây) nên sơn hà của Âu Cơ có tên là nước Âu Lạc. Trong Hoa sử đây là sự kiện Tây bá hầu Cơ Xương chiếm đất Lê của Bắc bá hầu Sùng Hầu Hổ, tạo sự uy hiếp lớn nhất đối với ngôi vị chủ thiên hạ của Ân Trụ Vương.
Là thủ lĩnh của người Di Lão, nên Cơ Xương còn được gọi là Lang Liêu (Liêu = Lão). Cơ Xương khi bị Trụ Vương bắt giam cầm ở Dĩu Lý đã viết Kinh Dịch bao hàm cả đạo Âm Dương, được truyền thuyết Việt gọi là Lang Liêu chế ra bánh chưng bánh dày vuông tròn. Nhờ “sáng chế” này mà Lang Liêu – Cơ Xương đã được nhận ngôi vị chủ nước Văn Lang.
Hiền Vương Cơ Xương, qua đời ở Hiền Lương bên bờ sông Thao, Hạ Hòa, Phú Thọ. Tại đây ngài được lập miếu đời đời tôn thờ là Quốc mẫu Âu Cơ. Sự nghiệp diệt Trụ phạt Ân được con của Cơ Xương là Cơ Phát – Thục Phán nối tiếp.





Thứ Ba, 1 tháng 2, 2022
TẾT CỦA TẦU HAY TẾT CỦA TA?
PHẠM TRẦN ANH – Nguồn : (8) Phamtran Anh | Facebook
Lịch sử Trung Hoa thời cổ đại là lịch sử của đại tộc Việt vì lịch sử Trung Quốc chỉ bắt đầu từ triều Thương là triều đại đầu tiên của Tàu Hán sau khi tiêu diệt nhà Hạ của tộc Việt năm 1600 TDL như sách sử Trung Quốc đã ghi chép. Cuộc hội thảo “Nguồn gốc của nền văn hóa Trung Hoa” của các nhà Trung Hoa học trên toàn thế giới kể cả Trung Quốc tổ chức tại đại học Berkeley California năm 1978 đã xác định tộc người Di Việt là tộc người đầu tiên cư trú ở trung nguyên lãnh thổ TQ bây giờ.Cổ sử Trung Hoa chép rằng từ thời cổ đại cho tới Nhà Hạ vẫn lấy ngày mồng một tháng giêng là ngày Tết của người Việt cổ. Nhà Hạ ăn tết nhằm cung dần, dựa theo nông lịch tức tiết đầu xuân lúc khởi đầu có sấm. Trong lễ hội dân gian, người Việt cổ xem trọng nhất là Tết. Tết là phong tục truyền thống của người Việt từ xa xưa cho đến ngày nay. Dân gian vẫn thường phân biệt là Tết ta và Tết Tây chứ không ai nói là tết Tầu vì chỉ dân tộc Việt Nam mới có chữ “TẾT” mà thôi, Tầu Hán không có chữ tết nên Tết là của Việt Nam chứ không phải của Tầu.
Thật vậy, trong Kinh Lễ viết Tế-Sạ # Tết mà Khổng Tử, người thầy muôn đời của người Trung Quốc đã giải thích với học trò:”Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó, họ gọi tên cho ngày đó là “Tế-Sạ”. Điều này chứng tỏ rằng người Trung Quốc không có tết và Kinh Lễ là của người Việt cổ nên tên gọi tết cổ của người Thái là chi Âu Việt trong Bách Việt cũng gọi Tết là Thê-Sa.
Trong khi đó, chính sách sử của Trung Quốc ghi rõ phong tục tết Nguyên Đán của người Việt trong “Tùy Thư (Địa Lý Chí) như sau:
“Năm nào đến ba ngày Tết Nguyên đán, người ta cũng dọn cỗ bàn linh đình cúng tổ tiên… Các công trình nghiên cứu đã tìm thấy hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là một sơ đồ Âm Lịch, với những tháng đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm. Sử Trung Hoa có ghi, vào đời vua Nghiêu ( 2356-2255 TCN) đã biết vị trí nhị thập bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm là 365 ngày, đã biết đặt tháng nhuận nầy.
Sách “Hoàng Đế Ngũ Gia Lịch (Tam thập tam quyển)” chép: “Người Trung Hoa tức Hoa Hạ là người Việt Cổ in lịch trên sách và lịch 365 ngày. Thiên Can, Địa Chi tính năm tháng ngày theo chu kỳ thập lục hoa giáp. Người Giao Chỉ khắc lịch vào mặt trống đồng và tính chu kỳ 18 năm và những bội số của 18 ấy. Tỉ như 180 là gồm 3 lần lục thập hoa giáp (180=3×60). Kết quả vẫn như nhau vậy . Đặc biệt, người Việt cổ có một sắp xếp ngày tháng năm của quyển lịch cho tiện dụng hàng vạn năm thì đã thật là một sáng chế rất văn minh và khoa học rất hợp lý và nhất là khi chúng ta được biết trong cùng thời kỳ chưa thấy một dân tộc nào có một quyển lịch hay như người Việt cổ đã sáng chế (Âm lịch hay Dương lịch ).
Thật vậy, sau khi tộc Thương (Hán tộc) đánh đuổi Nhà Hạ (Việt tộc) khỏi Hoa Bắc thì Hán tộc chọn ngày 1 tháng 12 âm lịch là Tết Nguyên Đán, đến triều Chu chọn ngày 1 tháng 11 âm lịch, triều Tần chọn ngày 1 tháng 10 âm lịch cho cả Trung Quốc. Mãi đến thời Hán Vũ Đế chịu ảnh hưởng của văn hoá Bách Việt phương Nam nên chọn lại ngày 1 tháng giêng là Tết Nguyên Đán. Ngày nay, Trung Quốc lại chọn ngày 1 tháng 1 Dương lịch tức Tết Dương lịch của Tây phương làm ngày Tết.
Thế nhưng dân gian Hoa Nam và Hoa Đông là người Trung Quốc gốc Việt cổ vẫn “Ăn Tết” vào ngày mồng 1 tháng giêng. Truyền thống ăn Tết Nguyên Đán ảnh hưởng lên toàn thể dân Trung Quốc gốc Hán nên thế giới hiểu lầm cho rằng ngày Tết Nguyên Đán là của người Trung Quốc. Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi và chúng ta, những người Việt Nam tự hào hãnh diện về nền văn minh Việt cổ. Trong khi Nhật Bản, Trung Quốc đã chọn ngày Tết Dương Lịch, nhưng dân tộc Việt Nam trước sau như một vẫn bảo lưu truyền thống “Nông lịch” của người Việt cổ lấy ngày mồng một tháng giêng Âm lịch là ngày Tết Nguyên Đán còn gọi là Tết Ta để phân biệt với Tết Dương lịch 1 tháng 1 Dương lịch là Tết Tây.
Thứ Bảy, 22 tháng 1, 2022
CHA RỒNG - MẸ TIÊN hay CHA TIÊN - MẸ RỒNG?
Nguồn : Hùng Việt sử quán
Truyện Họ Hồng Bàng kể Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, rồi chia tay, 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con trưởng theo mẹ về Phong Châu, lập ra nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương…
Nhưng cũng có khá nhiều các thần tích, nhất là thần tích ở miền đồng bằng ven biển lại kể ngược lại. Thánh tổ Lạc Long Quân lấy Động Đình Tiên nữ, rồi 50 người con theo cha lên núi, lập ra triều đại gọi là Kinh triều, bắt đầu tính từ Kinh Dương Vương dựng nước.
2 hướng kể này có mâu thuẫn với nhau không và phải hiểu chúng như thế nào? Sơ đồ tóm tắt thời mở sử Hùng Vương sau cho phép giải thích vấn đề này.
Trong cách kể thứ hai, người cha lên núi phải là Kinh Dương Vương hay Tản Viên Sơn Thánh, vì đây mới là người đã lấy Thần Long Động Đình. Cũng vì thế mà trong hướng kể này, các đời vua được gọi là “Kinh triều”, theo tên của Kinh Dương Vương. “Cha Tiên” Kinh Dương Vương lấy “Mẹ Rồng” Động Đình Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân là con trưởng, lập làm vua, cha truyền con nối… Như vậy “Kinh triều” hay “Lạc triều” chính là dòng Lạc của Lạc Long Quân hay dòng các Thủy Tinh Linh Lang của miền sông nước, bắt đầu từ cha Lạc Long Quân.
Còn trong cách kể thông thường thứ nhất, người con cả của Âu Cơ là Hùng Quốc Vương cũng lên ngôi thiên tử, phân phong cho các anh em làm phiên dậu bình phong, tức là trăm chư hầu Bách Việt. Thời kỳ này nối tiếp (thay thế) thời Kinh triều ở trên, được biết là thời nhà Thục hay Thục triều. Đây là cách kể của dòng Sơn Tinh theo mẹ lên núi, nên khác biệt với cách kể của dòng Thủy Tinh theo cha xuống biển ở trên.
Như thế người Việt vốn có cả Cha Rồng – Mẹ Tiên và Cha Tiên – Mẹ Rồng, chỉ là cách kể khác nhau từ 2 góc nhìn của 2 triều đại lên núi và xuống biển, Sơn Tinh và Thủy Tinh mà thôi.
Ý của Văn Nhân :
Tích Đại Vũ lấy Đồ Sơn thị cổ sử Việt kể là : Kinh dương vương kết duyên cùng Long nữ con gái Động đình hồ quân. Sử thuyết họ Hùng cho Đồ sơn thị nghĩa là người con gái ở Đồ sơn nay thuộc Hải phòng và Động đình hồ là vịnh Bắc bộ, Long nữ và Đồ Sơn thị là 2 tên gọi 1 nhân vật lịch sử .

Dùng Dịch tượng để xác định thì Kinh Dương vương có nghĩa là vua Nam triều hay Nam bang , Kinh dương vương kết hôn với Long nữ của truyền thuyết Việt là Kinh Dương vương thứ III , sử Việt gọi là Tản viên Sơn thánh cũng là Sơn tinh trong truyền thuyết Sơn tinh – Thủy tinh .
Kinh Dương vương – Tản viên sơn thánh là vua nước Xích quỷ hay Thích qủy đời thứ III , thích qủy thiết Thủy nghĩa là ‘nước’ , chuỗi từ biến âm nước>nác >Lạc cho thấy nước Xích qủy chỉ là cách gọi khác của Lạc quốc .
Long nữ hay Long mẫu vùng biển Đông người Việt gọi là mẹ rồng thì dễ nhận ra nhưng còn cha Tiên ?.
Lạc quốc hay Nác quốc chỉ cộng đồng người phương Nam (xưa – màu đen).
Sơn thánh chính là cha Tiên , Chữ Nho ghép 2 chữ Sơn và Nhân thành chữ Tiên , Tiên cũng là Thủy , thủy cũng là nước – nác hết thày là Dịch tượng chỉ phía Nam – sông nước – màu Đen – Lạnh giá . .
Lạc Long quân nghĩa là quân trưởng quốc gia do 2 tập đoàn người : phía Nam và phía Đông hợp nhất , người phía nam là con cháu Đại Vũ Sơn thánh còn người phía Đông là con cháu Long Nữ hay Long Mẫu . trong tiếng Việt danh từ riêng quốc hiệu ‘Nác – Nước’ về sau phổ qúat hóa trở thành danh từ chung chỉ mọi quốc gia .
Cốt lõi của vấn đề Tiên Rồng hay Rồng tiên là ý nghĩa chứa trong bản thân danh hiệu : nước Lạc – Long của Lạc Long quân tức auốc gia của ‘con Rồng cháu Tiên’ , cha Rồng mẹ Tiên hay ngược lại không quan trong miễn có đủ cả Rồng và Tiên là được .
Nòi giống Tiên Rồng là nói đến người Hoa Hạ tức người theo ông Khải vua kiến lập nhà Hạ , vương triều đầu tiên của Trung hoa . Các vua nhà Thương được xếp thuộc tập đoàn Đông Di , vua nhà Châu là Tây Di .

Hoa – Di thời nhà Hạ .
Thiên hạ thời nhà Hạ được gọi là Lạc – Long tức nước Đông và Nam (xưa) vì nguồn cơn lịch sử :
Theo phép thiện nhượng Đại vũ sẽ truyền ngôi cho ông Cao Giao người đứng đầu tộc La nhưng ông Cao Giao đã mất nên định truyền ngôi vua cho Bá Ích con của ông Cao Giao .
Ông Khải con của Đại Vũ không tuân theo di mệnh mà hưng binh tranh ngôi với bá Ích , bá Ích thua và phải dẫn dân của mình là Hữu Hộ thị trốn chạy sau 5 lần tạm dừng cuối cùng định cư ở vùng Kì sơn , Đế Khải tức giận đày người La ra sống ở tứ phương thiên hạ gọi là Di Hạ từ đó người Thiên hạ chia thành ́ Hoa Hạ là người theo ông Khải sống ở trung tâm tức vùng phồn hoa đô hội còn người Di hạ sống ở Tứ phương . Di ban đầu nghĩa là dời đi không mang tính miệt thị ..
Sử thuyết Hùng Việt xác định vùng Kì sơn nơi định cư của Hữu Hộ thị xưa là vùa Qúy châu thông qua tên gọi nưởc Dạ lang ở nơi này , Dạ lang tức Di Hạ lang nghĩa là nước của chúa Di Hạ ở đây chỉ Bá Ích ., theo phép phiên thiết di hạ thiết dạ .
Cuộc tranh dành Khải và Bá Ích thắng lợi thuộc về đế Khải đã bị giới sử học Việt hiểu lầm về bản chất và biến thành cuộc chiến Hùng – Thục lần thứ I với thắng lợi của phía Hùng .
Đế Khải trong truyền thuyết Việt là Lạc Long quân , Lạc Long quân là thủ lãnh 2 tập đoàn người phía Nam (xưa nay là Bắc ) và phía Đông tức tộc Tiên và Rồng sống trong lãnh thổ nhà Hạ , còn tập đoàn Hữu Hộ thị hay họ Hổ ở Tây Bắc xưa nay là Tăy Nam bị đày đi tứ phương gọi là tứ Di tức dân bị dời đi .
Quốc danh Lạc – Long hay Tiên – Rồng tức vương quốc Thiên hạ đầu tiên đã được khắc trên mặt trống đồng bằng bằng ngôn ngữ số Dịch học :

10 con Nai ý chỉ đất trung tâm hay Giao chỉ .
10 con Nai và 6 con chim chỉ cộng đồng người Giao chỉ phía Nam tức dòng tộc Tiên
10 con Nai và ́8 con chim chỉ cộng đồng người Giao chỉ phía Đông tức dòng tộc Long
.Các nút số 10-6-8 là các số của đồ hình Hà Thư (gọi sai là Hà đô).̀

6 nút Đen hay 6 Đốm chỉ phía Nam , Nam Bắc nay đã lộn ngược
8 nút Đen hay 8 Đốm chỉ phía Đông .
Thứ Năm, 20 tháng 1, 2022
Hổ dữ, Hổ lành và triết lý “thả Hổ về rừng”
Nguồn :Hổ dữ, Hổ lành và triết lý “thả Hổ về rừng” – Bách Việt trùng cửu (bahviet18.com)

Khi nói đến Hổ ta thường nghĩ đến sự hung dữ, độc ác, hại người. Nhưng trong văn hóa truyền thống, Hổ lại là biểu tượng của điều lành cát tường, là bà mẹ Thiên nhiên, bao bọc, nâng đỡ cho Con người.
1. Trong tập truyện cổ Lĩnh Nam chích quái có câu chuyện kể về lễ tục cúng thần vào ngày cuối năm 30 tháng Chạp của người Việt. Truyện Mộc tinh chép:
“Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây Chiên đàn cao hơn ngàn nhẫn, cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn dặm, có chim hạc đến đậu nên đất chỗ đó gọi là Bạch Hạc. Cây trải qua mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay hình đổi dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật. Kinh Dương Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu nhún nhưng vẫn nay đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền thờ hàng năm thường tới 30 tháng Chạp, theo lệ phải mang người sống tới nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng.”
Truyện Mộc Tinh nói đến cây “Chiên đàn” cao hơn ngàn nhẫn. Khi áp dụng phép phiên thiết âm ngữ ta có: Chiên đàn thiết Chàn, hay Chằn. Thì ra Chiên đàn là tên ghi âm Nôm của từ Chằn. Chằn tinh chỉ loài yêu quái nói chung. Như thế, gọi cây Chiên đàn tương đương với gọi đó là Mộc Tinh. Tuy nhiên, sự thật thì Mộc Tinh không phải là một loại cây, mà lại là… loài Hổ.
Trước hết, lệ cúng thần Xương Cuồng vào ngày 30 tháng Chạp trùng với tên gọi dân gian của Hổ là ông Ba Mươi. Thêm vào đó, trong Kỳ môn độn giáp có vị hung thần là Bạch Hổ Xương Cuồng. Phạm Đình Hổ trong cuốn Vũ trung tùy bút cũng cho biết rằng thần Xương Cuồng chính là Thần Hổ: “Làng Ngọc Cục ở huyện ta (Đường An, Hải Dương) khi xưa truyền rằng vẫn thờ yêu hổ phải bắt người làm việc hy sinh để cúng… Đó cũng như cái tục Nhâm Ngao tế thần Xương Cuồng vậy.”
Loài Hổ được dân gian tôn gọi là Chúa Sơn Lâm, không chỉ vì đó là loài thú dũng mãnh nhất trong rừng. Những chuyện kể về Hổ dữ thường gắn với những cây cổ thụ to lớn, nơi Hổ rình ăn thịt người. Có lẽ vì lý do đó mà người xưa cho rằng Hổ là tinh của cây gỗ lớn lâu năm, dẫn đến truyện Mộc Tinh như trên.
Hổ được gọi là ông Ba Mươi và cúng thần Hổ Xương Cuồng vào ngày 30 tháng Chạp. Điều này xuất phát từ khái niệm trong Can chi. Chi thứ 3 trong thập nhị địa chi là chi Dần, có hình tượng là con Hổ. Còn số 10 xưa là số Cả (Kỷ) hay Kỵ. Như thế 30 nghĩa là Kỵ Dần, tức là ngày cúng Hổ, rất đúng với tên gọi và phong tục dân gian. Ở một số nơi miền Nam như Bến Tre có còn tập tục tôn Hổ là Hương Cả, đứng đầu hương chức trong làng. Tên gọi Ông Cả tương thông ý nghĩa với tên Chúa Sơn Lâm của loài Hổ.
2. Nếu Hổ trong truyện Mộc Tinh Xương Cuồng là loài Hổ dữ, ăn thịt người thì hình tượng Hổ trong văn hóa truyền thống phương Đông lại mang ý nghĩa khác. Sách Lễ ký từ thời đức Khổng Tử đã ghi Hổ là một trong tứ thần thú: “Tiền Chu Tước, hậu Huyền Vũ, tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ”. Tứ linh thú này theo dân gian gọi là “Long, Ly, Quy, Phượng”. So sánh 2 bộ tứ thần có thể thấy Hổ tương ứng với con Ly hay Lân. Loài Kỳ Lân theo sách Lã Thị xuân thu là thần thú tiêu biểu cho các loài động vật có lông mao. Còn loài Hổ cũng là chúa Sơn Lâm, đứng đầu muôn loài vật.
Tứ linh Long Ly Quy Phượng là biểu trưng của mô hình Tứ tượng (Thái cực đồ), trong đó có Thái Dương ứng với Phượng hoàng Đỏ ở hướng Nam nay, Thiếu Dương có tượng là Rồng Xanh (Thanh Long) ở phương Đông, Thái Âm là Rùa thiêng Huyền Vũ màu Đen ở phương Bắc nay, còn Thiếu Âm là Hổ Trắng, chiếm phương vị ở hướng Tây. Bản thân mô hình Ngũ hành xưa được biểu hiện thành ban Ngũ Hổ trong các đền miếu và trong tục thờ của tín ngưỡng Tứ phủ.
Theo triết học cổ phương Đông (Dịch học) xã hội con người phát triển theo chu kỳ tuần hoàn trải qua cả 4 mặt của Tứ tượng. Mô hình Tứ tượng – Ngũ hành đặt Con người ở vị trí trung tâm và tương tác với 4 hành tượng xung quanh. Thiếu Dương hành Mộc tượng trưng cho quan hệ giữa con người với xã hội, tức là cách hành xử giữa người với người. Còn Thiếu Âm hành Thổ biểu diễn quan hệ giữa con người với thiên nhiên, tức là tri thức hiểu biết về tự nhiên của con người. Chính vì vậy mà con thần thú biểu tượng của Thiếu Âm có tên gọi là Ly, hay Lý, Lẽ, vốn gốc nghĩa là Lửa, là ánh sáng của tri thức khoa học.
Tên gọi này còn thể hiện trong hình tượng Kim Nghê, là một trong những “đứa con của Rồng” (Long sinh cửu tử) trong văn hóa phương Đông. Kim Nghê được cho là loài vật thích khói lửa nên dùng đúc trên nắp các lư hương hay chỗ hóa vàng. Thực ra hình tượng này đã có ở dạng tay cầm trên nắp đồ vật đựng bằng đồng từ thời Chiến Quốc. Ban đầu Kim Nghê vốn là hình con Hổ vì Hổ cũng là Hỏa, là Lửa, tương ứng với con Ly ở trên. Tên gọi Toan Nghê xưa được dùng để nói tới hình Sư tử, vốn nghĩa là một loại Hổ cương mãnh. Hình tượng con Nghê hay con Lân thường gặp trong các điệu múa Lân (múa Sư tử), hay trên các bức chạm khắc Rồng Nghê rất phổ biến trong các đình làng.
3. Cặp linh thú Bạch Hổ – Thanh Long biểu hiện cho 2 mặt Âm – Dương vận hành phối hợp với nhau, là hình tượng rất hay gặp trong văn hóa cổ phương Đông. Biểu tượng này thịnh hành từ thời trước Công nguyên. Trong các mộ gạch xây thời Hán tìm thấy ở nhiều nơi tại Việt Nam hay gặp những chiếc gương đồng được bồi táng. Trên những chiếc gương đồng thời này thường được đúc hình tượng Long – Hổ và dòng chữ nêu ý nghĩa của chúng: “Thượng hữu tiên nhân bất tri lão. Tả Long hữu Hổ tịch bất tường”, nghĩa là: Trên có vị Tiên không biết già, Rồng trái Hổ phải xua điều xấu. Hình Hổ ở thời kỳ này không phải là biểu thị cho sự hung dữ, hay sức mạnh, mà là biểu tượng cát tường, bảo hộ phúc lành cho con người. “Cưỡi Hổ thành Tiên” là một trong những hình thức tu của đạo Thần Tiên khởi phát trong thời Hán.
Vào quãng đầu Công nguyên Đạo Giáo ở Việt Nam và Trung Hoa phát triển mạnh. Tư tưởng của đạo Thần Tiên bao trùm lên quan niệm tín ngưỡng của xã hội lúc đó. Vương Sung, một nhà triết học nổi tiếng thời này nói: “Ve lột vỏ, rắn thay da, rùa bỏ mai, hươu rụng sừng, da vỏ tiêu hết, chỉ giữ lại xương cốt mới có thể thoát xác tái sinh”. Đây là quan niệm của Đạo gia, như được thể hiện trên những hình vẽ trên lụa hay trên tường mộ thời này.
Một bức tranh lụa thời Hán như vậy có hai phần. Phần phía dưới thể hiện cảnh sinh hoạt của con người như đang nấu nướng, chế biến, săn bắn và tế lễ. Phần trên là cảnh tiên, có cặp Huyền Vũ – Chu Tước trên và dưới để “điều hòa âm dương”. Giữa là hình rồng cưỡi mây, biểu hiện của đắc đạo phi tiên. Quanh đó là các tiên nhân đã mọc thêm cánh, nhẹ bay qua thân xác phàm tục của mình thành tiên. Mặt mũi, hình dạng thân thể của họ cũng thay đổi, nên có những tiên nhân mang cánh chim, đầu cáo hay hình cá rất dị thường. Những bức tranh lụa trong mộ cổ thời Hán được gọi là “minh tinh”, được bồi liệm với ý nghĩa đưa đường (dẫn lộ) cho người chết thoát khỏi thân xác phàm tục mà đến với thế giới thần tiên.
Cũng từ thời Hán người được tôn sùng đứng đầu tiên giới là vị Tây Vương Mẫu, mà hình ảnh thường được thể hiện trong các bức bạch họa (tranh lụa) và bích họa (tranh tường) trong các mộ gạch. Theo Sơn Hải Kinh thì Tây Vương Mẫu nguyên là vị chủ thần hướng Tây trên núi Côn Lôn, có thân Hổ mặt người. Một chiếc gương đồng được phát hiện từ thời Pháp khi khai quật mộ gạch ở Nghi Vệ (Tiên Du, Bắc Ninh) có hình Tây Vương Mẫu trong cách thể hiện này. 2 bên Tây Vương Mẫu là hình các tiên nhân thị chầu ở dạng thân rắn đầu người, xuất phát từ quan niệm rắn lột xác thành tiên. Hình Hổ trong trường hợp Tây Vương Mẫu đã trở thành biểu tượng “bà mẹ” Thiên nhiên đối với con người.
Cùng một ý nghĩa dẫn độ người chết về với cõi thần tiên là các bộ tranh thờ của người dân tộc miền núi nước ta. Trong bức tranh khắc gỗ Độ linh của người Tày ở Hòa An, Cao Bằng, thể hiện một quãng đường dài với những vị thần tiên tiếp dẫn linh hồn con người từ khi mới chết đến cho khi siêu thoát. Con đường linh này được bắt đầu bởi vị thần mang tên là Hổ Vĩ (đuôi hổ), cưỡi trên một con Hổ có chiếc đuôi dài. Quãng đường Độ linh được kết thúc bởi hình Long Đầu (đầu rồng), cho thấy cặp Long – Hổ chính là biểu thị ngắn gọn cho khái niệm Âm – Dương, cho đoạn đường mà linh hồn phải trải qua trước khi thoát tục.

4. Một hình tượng Hổ đặc biệt gặp trên một bảo vật có niên đại từ thời Ân Thương (cách nay trên 3.000 năm) là chiếc bình Hổ tôn. Chiếc bình có hình Hổ đang ở tư thế ngồi. Đầu Hổ to, có 2 tai nhọn, mắt và mũi Hổ lớn, trông rất có thần thái. Miệng Hổ há rộng, lộ hàm răng trên. Hai chân trước của Hổ quặp lấy một hình người đúc nổi. Đầu người trần trụi nằm ngay dưới miệng Hổ. Hai tay người dang ra, ôm lấy thân Hổ. Hai chân người ngồi choãi ra hai bên, với bàn chân trần dẫm lên 2 chân Hổ. Nắp bình khá nhỏ, có tay cầm đúc ở dạng hình một con Hươu có chấm như Hươu sao và được trang trí bằng 2 con Quỳ Long ở 2 bên. Mặt trong của nắp bình có đúc chìm tộc huy hình chim (Điểu) và 2 chữ “Phụ Quý”, là tên của một vị vua nhà Ân Thương. Quai bình có 2 đầu hình một loài vật mặt như mặt Cáo, có 2 răng nanh và mõm dài nhô ra như đầu loài Cầy vòi. Trên tay cầm của bình có hình các con Quỳ Long. Phần lưng bình có mặt Thao thiết có sừng, gắn với phần đuôi tròn, dày và cong cuộn. Đuôi Hổ cùng với 2 chân trước làm thành chỗ tựa thứ ba cho chiếc bình.
Toàn cảnh chiếc Hổ tôn cho người ta có cảm giác như hình một con Nghê đang chầu. Chỗ khó giải thích nhất của chiếc Hổ tôn là cảnh người ôm Hổ, đầu người trần trụi nằm ngay dưới răng Hổ, nhưng khuôn mặt quay sang một bên lại không hề có vẻ sợ hãi. Biểu hiện của người được đúc trên chiếc bình không giống như một cảnh hiến tế người cho thần Hổ.
Lời giải về ý nghĩa của chiếc Hổ tôn rất bất ngờ lại nằm trong cuốn kỳ thư Kinh Dịch từ thời nhà Chu. Quẻ Lý của Chu Dịch có lời quẻ như sau: “Lý: Hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh”. Trong đó Lý nghĩa là “dẫm”, hay đi theo. “Hổ vĩ” là đuôi Hổ. “Bất điệt nhân” là không cắn người. Hanh là tính chất hanh thông, thuận lợi trong Dịch học. Lời quẻ Lý mô tả chính xác hình ảnh chiếc Hổ tôn: Dẫm lên chân Hổ, nhưng Hổ không cắn người, mà lại là sự Hanh thông, thuận lợi. Vì sao thế?
Như đã bàn ở phần đầu của bài, Hổ là biểu tượng của tri thức, hiểu biết của con người đối với thế giới tự nhiên. Bản thân tên chi Dần gần với âm Nôm của chữ Rành, chỉ sự rõ ràng của Lý lẽ. Đi theo đuôi Hổ, giống như trong bức tranh Độ linh của người Tày, có nghĩa là đi theo ánh sáng của tri thức, tất nhiên không bị hại, mà lại được mọi sự thông thuận. Hình ảnh Hổ Chúa Sơn Lâm cùng với các loài muông thú (Hươu, Cầy cáo) là biểu tượng của Thiên nhiên. Bình Hổ tôn thể hiện sự hài hòa giữa Con người và Thiên nhiên. Con người ôm lấy bà mẹ Thiên nhiên, dựa vào Thiên nhiên và được Thiên nhiên bao bọc, che chở, nâng đỡ.
Khởi phát ban đầu khi loài người mới xuất hiện, con người phải dựa vào thiên nhiên mà sống. Khi con người đã hiểu biết nhiều hơn, thông minh hơn, họ sống trong xã hội loài người, nảy sinh tư tưởng “duy ý chí”, xa rời lẽ tự nhiên. Theo đúng quy luật của Dịch học, xã hội ngày càng phát triển, con người trở nên mạnh mẽ hơn trong xã hội, thì sẽ đến lúc phải quay lại vòng xoáy ốc theo chu kỳ mà trở về với thiên nhiên. Thiên nhiên, nếu không cách biết đối xử đúng, thì sẽ là Hổ dữ, nhưng nếu biết “Đi theo Hổ” thì lại là điều tốt lành. Triết lý “Thả Hổ về rừng” là để cho bản tính của Con người trở về với Thiên nhiên, làm theo quy luật của tự nhiên. Con người nhờ có tri thức khoa học biết dựa vào tự nhiên mới có cuộc sống cát tường, thuận lợi, văn minh. “Cưỡi Hổ thành Tiên” là dựa vào thiên nhiên mà “đắc đạo”, đạt được thành công viên mãn trong cuộc sống.
Bài đăng trên báo Lao động cuối tuần, số Xuân Nhâm Dần 2022


Về Chi Dần con Hổ Văn Nhân xin góp với tác gỉa Bách Việt trùng cửu 2 ý :
Trong 12 địa chi , chi Dần bề trong chỉ lí lẽ bề ngoài chỉ văn minh
Nguồn gốc của tên gọi Dần là từ gốc Việt biến âm của Vằn như trong Hồ vằn Báo đốm , kinh Dịch nói Hổ được coi là loài tượng trưng cho văn minh vì trên mình nó tự thân đã có vằn , vằn chính là văn vậy .
Chính chuỗi Dần – vằn – văn của chi Dần đã xác định thập nhị địa chi và xa hơn nữa là cả Dịch học là sáng tạo của nền văn minh họ Hùng .
Sử thuyết Hùng Việt cho họ Hổ là 1 trong 2 dòng tộc gốc tổ của dòng giống Trung hoa .
Cổ sử Trung Hoa viết: sau khi lên ngôi ông Khải đã tiến đánh Hữu Hộ Thị vì bất phục lấy đấ́t An ấp của họ làm kinh đô đày dân Hữu hộ thị đi khắp nơi gọi là tứ Di ( di tiếng Việt nghĩa là dời đị ) ;nguyên nhân sự bất phục ở trên ta đã biết, Hữu là họ Hộ thực ra là Hổ biến âm của từ Hỏa nghĩa là lửa, vậy Hữu Hộ Thị chỉ nghĩa là tộc họ Hỏa, hay Lửa chính là người La còn gọi là Di-lão . Đế Minh đã chia nước làm 2 miền: Bắc – Nam hay Lửa – Nước, Tư liệu Trung hoa gọi là đất Đào – Đường và truyền ngôi cho Đế Nghi là con trưởng, phong Lộc Tục làm vương phương Nam hay phương Nước. Họ Lửa chính là dân của Đế Nghi ở đất Giao-bắc, là Vùng Thanh – Nghệ – Tĩnh hiện nay, Cao Giao nghĩa là thủ lãnh dân Giao (bắc), tức Giao Lửa – Hoả – Hổ cũng gọi là người La – Lửa , cao – cả chỉ thủ lãnh có âm gốc là cửu số 9 , ông Cao Giao mất người kế nghiệp ông là Bá Ích, Ích là biến âm của ất hay óp là Can số 2 trong Thập Can, chỉ phương bức (nóng), cùng vị trí với Quẻ Lửa trong Hậu Thiên Bát Quái, và Hành Hỏa trong Ngũ Hành ; La-Lê- Liêu và Lão đều nằm trong cụm từ có gốc là âm Lửa của họ Hổ viết sai thành hữu Hộ còn từ thị là thừa tương tứ như sông Hương giang núi Thái sơn vậy
