Hiển thị các bài đăng có nhãn Tổng hợp. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tổng hợp. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2024

Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng .

 Phần 1 : Giải mã Mặt trống đồng Ngọc lũ .

Trống đồng có nhiều hình dạng , nhiều thời do đó cũng nhiều mảng thông tin khác nhau,  bài này viết về thông điệp trên mặt trống đồng NGỌC LŨ.
 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . Mat-trong-dong
Mặt trống gồm 1 tâm và 3 vòng đồng tâm .
A / – Tâm trống nói : các cành hay các chi có thể có nhiều nhưng quy lại chỉ có 1 gốc 1 giống dòng , 1 tổ tiên .
Tâm trống thể hiện ý thức về nguồn cội  của người họ Hùng .
Tâm trống là mặt trời đang chiếu sáng , vòng tròn số 1 là cảnh sống , sinh hoạt của con người .
Tâm trống đồng luôn luôn là mặt trời , mọi kiểu trống mọi thời đại đều như thế ; điều  này cho thấy có sự thống nhất và xuyên suốt  nguyên tắc cơ bản trong hệ tư tưởng Việt : Mặt trời là trung tâm vũ trụ cũng chính là hình ảnh đại diện cho ‘ông trời’ siêu hình .
Ông Trời là đấng tối cao mà quyền năng chi phối tất cả nhưng lại thân thiết gần gũi như cha mẹ nên người Việt  hay gọi … “Trời đất ơi.-.cha mẹ ơi.”
Mặt trời phát ra ánh sáng cũng là phát ra sự sống , trong tiếng Việt ‘sáng’ và ‘sống’gần như là một âm , phần hồn tức anh linh nơi con người chính là 1 phần của cái khối sáng vĩ đại ấy  đến trái đất nhập vào thân xác vật chất thành ra con người sống động …có thần , thần tính ấy được quẻ Kiền gọi là Long hay con Rồng ,6 hào là hình ảnh tượng trưng của  6 giai đoạn bay lên từ đất tới trời cao .
Khi đã đi hết đoạn đường trần thế thì xác trả về cho đất hồn trở về trời chính vậy mà mặt trời với người Việt trở thành chốn linh thiêng  vì tổ tiên ông bà ngự  nơi đấy , 
Quẻ Lôi địa Dự viết : ‘lôi xuất địa phấn tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức ân tiến chi thượng đế dĩ phối tổ khảo’ cũng là lẽ này ; câu dâng lên trời mà cũng là để ông bà mình hưởng …. đã chỉ ra : anh hồn tổ tiên đang ở chung với ông trời hay đấng tối cao …
Với nhân sinh quan như vậy nên người Việt là dân tộc có hiếu nhất thế giới , chữ hiếu được nâng hẳn  lên thành 1 tôn giáo : gọi là đạo ‘Hiếu’ hay đạo thờ ông –bà…,
Cao nhất là thờ ông ‘Thiên’ tổ của cả loài người , với quốc gia thì thờ quốc tổ , làng thì thờ ‘thành hoàng’, tộc họ thì có nhà thờ họ và trong mỗi nhà đều có bàn thờ ‘gia tiên’….trong nhân sinh quan người Việt thì …qúa khứ -hiện tại – tương lai  sống và chết  là sự biến đổi tiếp nối tuần hoàn không có chấm dứt , thế nào rồi cũng có ngày phải về gặp các cụ …. lúc đó ….ăn làm sao nói làm sao ? chính vì vậy nên phải lo liệu ngay từ bây giờ….công đức tạo nên không phải chỉ để cho đời này mà là công đức cho mọi đời ….ngoại trừ những tay ‘siêu bịp’ thì ai được kính trọng ở đời này ắt cũng  được kính trọng ở đời sau và ngược lại kẻ bị người đời nguyền rủa thì cũng sẽ bị nguyền rủa đời đời .

Quảng cáo


B /- Vòng đồng tâm thứ 2: xướng danh dân tộc .
Ỷ nghĩa của vòng này chỉ ra : người họ Hùng hay dân tộc Hùng có  2 chi tộc ;  La và Kinh tựa  như 2 đầu của la bàn Phong thủy , La và Canh tuy 2 mà chỉ là 1 , chi tộc La sống trên đất Đào cũng gọi là đất An  ở về phía Xích đạo còn chi Canh hay Kinh sống ở đất Đường hay Thường cũng là đất Lạc – nước ở về hướng đối diện .

 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . 112 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . 111-1
  • – 6 người tượng trưng cho chi tộc Kinh phía Bắc nay , phía Nam xưa của Dịch học 
    –  7 người chỉ chi tộc La  sống̉ phía Xích đạo 



  • C *  Vòng đồng tâm thứ 3 :chỉ rõ  quốc gia đã chế tạo trống đồng và là  chủ nhân của nền văn minh trống đồng tức văn minh phương Đông .
    Là người Việt không ai mà không biết huyền tích Kinh dương vương kết duyên cùng Long nữ con gái Động đình quân, như đã nói ở những bài trước trong sử thuyết họ HÙNG , Kinh dương vương nghĩa là vua phương Nam, Long nữ hay Long mẫu con gái Động đình quân vua phương Đông , sự hợp huyết 2 dòng phương Nam và phương Đông là sự hoàn tất việc đúc kết tạo nên người Việt , cũng vì lẽ này người Việt rất đỗi tự hào khi nhận mình là ‘con Rồng cháu Tiên’ .
    Những thông tin tạo nên tuyền thuyết này ̣đều xuất phát từ Hà thư .



Trong đồ hình Hà thư . số 6 hay 6 nút trắng nằm ở phía nam , số 8 nằm ở phía đông.
Phương Nam ngoài số 6 còn có số 1 nên phương nam còn là phương của đế Tiên hay bà Vũ Tiên vì lẽ này người Việt mới nhận mình là ‘cháu Tiên’.
Theo hậu thiên bát quái phương Nam số 6 còn là phương của nước tức quẻ Khảm .

 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . 8-quai
Nước tiếng Việt cổ là nác-lác → Lạc .đây chính là từ Lạc trong lạc long quân và Lạc Việt .
Trong Hậu thiên bái quái phương đông số 8 là quẻ Chấn hay Thìn tức con Rồng ,Hoa ngữ là Long .
Tới đây đã rõ câu : con cháu Tiên-Rồng hay dòng giống Lạc –Long là chỉ sự hợp nhất giữa 2 dòng người họ Hùng ở phương Nam số 6 và phương Đông 8  theo Hà thư vào thời Hùng Việt vương – Tuấn lang .
Mặt trống đồng Ngọc lũ đã thể hiện những thông tin lịch sử này ở vòng tròn thứ 3
bởi nửa vòng tròn khắc hình 6 con chim và 10con nai và nửa vòng tròn còn lại là 8 con chim và 10 con nai . Ở đây tiền nhân người Việt đã sử dụng những nút số  của Hà thư , đặc biệt số 10 lại không được coi là 10 ( số chẵn ) mà coi như là 2 số 5 là số lẻ .
Các nút trắng – chẵn của Hà thư được thay thế bằng hình Chim và nút đen –lẻ được thay thế bằng con nai .
Nhìn lại Hà thư với các nút chẵn :

 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . Ha-thu-ngang
10 con nai và 6 con chim chỉ người họ Hùng phương nam:con cháu của Kinh dương vương
Quảng cáo


10 con nai và 8 con chim chỉ người họ Hùng phương Đông .con cháu của Long nữ hay Long mẫu .
Ý nghĩa thể hiện ở vòng tròn đồng tâm thứ 3 trên mặt trống đồng chính là sự tự xưng danh tánh của chủ nhân trống đồng Ngọc lũ , dân tộc ấy chính là dòng giống Tiên –Rồng hay Lạc – Long , Tiên – Long . xác lập bởi các cặp số số (6/10) và số (8/10).
Nếu không có số 10 chỉ dùng số 6 và số 8 sẽ bị  hiểu là :người nước ngoài ở phía nam và ̣đông nước ta ;
Người Việt xưa đã thêm mẫu số 10 để nói rõ đấy là : người họ HÙNG thuộc chi phương Trung-nam và chi phương Trung-đông .
Trong 18 đời Hùng vương thì Hùng Việt vương – Tuấn lang chính là Sơn tinh hay Tản viên Sơn thánh quốc chúa đại vương . , ‘Tuấn’ là tên chữ ký âm của ‘Tản’ tiếng Việt .
Sơn tinh cũng là 1 Kinh dương vương ( canh=6 , giêng = 1)  nghĩa là chúa phương nam vì  trong Tiên thiên bái quái quẻ Cấn là sơn – núi chỉ phương nam .
Truyền thuyết nói Kinh dương vương kết duyên cùng Long nữ như đã xác định ở vòng tròn thứ 3 mặt trống đồng Ngọc lũ phải chăng là nói về sự thống nhất dòng Tiên và rồng để tạo ra ‘dòng giống tiên Rồng’ ở triều đại Hùng Việt vương – Tuấn lang ?.( xin xem Sử thuyết họ HÙNG ), từ người VIỆT bắt đầu có từ đây .
D /- Vòng đồng tâm thứ 4: ước vọng Dân tộc trường tồn .

 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . Mat-trong-dong
Vòng đồng tâm thứ 4 cũng là vòng ngoài cùng  của mặt trống đồng có tổng cộng 18 cặp chim , mỗi cặp có 1 chim lớn đang tung cánh bay và 1 con chim nhỏ đang tung tăng trên mặt đất ., từng cặp như vậy nói lên sự nối tiếp liên tục hễ tre già thì măng mọc , cha mẹ già khuất núi thì con cháu lớn lên cứ như thế mà tiếp nối mãi .
Trong Dịch học Chim Hạc hay Hồng hạc là chữ của Điểu thú văn chỉ Trời cao ,thời gian và những yếu tố văn hóa phi vật thể , Hà → hạc .
Con nai Hoa ngữ là Lộc biến âm của lục là số 6 cũng là Đất cũng là chữ điểu thú văn dùng chỉ : đất , không gian và những yếu tố văn hóa hữu hình hữu thể .
Những cặp chim ở vòng tròn thứ 4  trên mặt trống đồng Ngọc lũ là loài chim DIỆC .
DIỆC là phát âm của người nam bộ , âm bắc là VIỆT .chính là từ Việt trong đế hiệu Hùng Việt vương – Tuấn lang ?.
Số 9 là cửu , cửu cũng có nghĩa là lâu dài , 18 là trùng cửu ( 9×2 ) đồng âm với trường cửu .nghĩa là mãi mãi bất tận ., điều này xin đừng vội cho là cưỡng ép vô lối vì chính người Hoa cũng hay dùng lối đồng âm gán nghĩa này như : họ kiêng số 4 vì đọc là tứ cận âm với tử là chết , bạn cũng đừng ngạc nhiên khi họ tặng bạn chiếc quan-tài…vì quan ở đây được hiểu là sự thăng quan tiến chức , tài hiểu là tấn tài tấn lộc nghĩa là chúc có thêm tiền ….
-Chim diệc đang tung cánh bay là chỉ dân tộc Việt trong vòng thời gian ..
-Mỗi cặp chim 1 trưởng thành 1 còn non chỉ sự nối tiếp kế thừa .
-18 cặp là Trùng cửu ( 2 lần 9 ) cũng là trường cửu .
Vòng đồng tâm thứ 3 trên mặt trống đồng Ngọc lũ với 18 cặp̣ chim Diệc là bản văn  ngắn gọn nhưng rất rõ ràng :


“ DÂN TỘC VIỆT ĐỜI SAU NỐI ĐỜI TRƯỚC CỨ NHƯ THẾ TỒN TẠI MÃI MÃI ”
Phần 2 : ý nghĩa lịch sử của cặp quẻ khom – dã 
Cặp quẻ này có xuất phát từ hình ảnh dân dã : khom lưng-dã gạo , chữ ‘dã’ liên quan chặt chẽ với đạo chày – cối tức trai-gái , âm-dương của dịch học họ HÙNG Quẻ Dự hay dự phần = Lôi / Địa

 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . Image011
Dự Nghĩa là tham gia vào là cùng trời cùng đất tạo thành bộ mặt vũ trụ, tài nhân ngang hàng tài thiên, tài địa trong thế tam tài.
a. Lời Quẻ
Dự: Lợi kiến hầu , lợi thành sư.
Quẻ dự tạo thành bằng quẻ lôi trên quẻ địa, sấm nổ trên đất đấy là tượng của cái trống đồng.
Lợi kiến hầu nghĩa là dùng vào việc phong tước hầu. Hiện nay có những nhà nghiên cứu lịch sử cho trống đồng là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu, nó tựa như một loại ấn tín vậy, đặc biệt trong lễ nghi đạo hiếu của Việt Nam thì các bậc vương hầu dùng trống đồng thay mặt người dân của mình để tế tổ tiên của cộng đồng. Chữ lợi ở đây có nghĩa là: dùng để
Lợi kiến hầu: dùng trong việc phong tước hầu .ngờ rằng sau chữ LỢI còn chữ DỤNG nhưng đã bị bỏ mất
Lợi hành sư: dùng để hành quân, quân theo tiếng trống mà tiến hoặc lùi hoặc sang phải, sang trái… công hoặc thủ v.v… trống trở thành một công cụ dùng trong quân sự.
b. Lời tượng:Lôi xuất địa phấn dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo.
Sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với anh linh tiên tổ.
Trống đồng còn gọi là trống sấm khi đánh để úp xuống đất nên lời tượng bảo: lôi xuất địa phấn, tiên vương tức tiên đế nhà Chu là Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công v.v…
Với chữ Tác nhạc cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế, nó chính là tổ tiên của văn hóa cồng chiêng ngày nay.
Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn đang đặt câu hỏi: trống đồng dùng để làm gì hay công dụng của nó ra sao, lời quẻ và lời tượng quẻ dự đã chỉ rõ ngay 3 công dụng:

[list=wp-block-list][*]Trống đồng dùng như một lệnh bài sắc phong tước vị.
Dùng làm hiệu lệnh điều quân.

[*]Dùng trong âm nhạc ở các buổi tế lễ long trọng.
[*]Chỉ với những khám phá trên đủ khẳng định dịch học không phải là của Hán tộc, một dân tộc sống ở lưu vực Hoàng Hà không hề biết trống đồng là gì.
Những chiếc trống đồng vô tri vô giác thông qua Kinh Dịch trở thành linh khí của người Việt vì qua đấy người Việt có thể tìm ra anh em và tìm về với tổ tiên như Quẻ Lôi địa Dự viết :
Lời tượng: Lôi xuất địa phấn dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo.

[/list]
  • Sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với anh linh tiên tổ.
    Trống đồng còn gọi là trống sấm khi đánh để úp xuống đất nên lời tượng bảo: lôi xuất địa phấn, tiên vương tức tiên đế nhà Chu là Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công v.v…
    Với chữ Tác nhạc cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế long trọng.
    Lời Quẻ : Dự: Lợi kiến hầu , lợi thành sư.

  • Quẻ dự tạo thành bằng quẻ lôi trên quẻ địa, sấm nổ trên đất đấy là tượng của cái trống đồng.

Lợi kiến hầu nghĩa là dùng vào việc phong tước hầu. Hiện nay có những nhà nghiên cứu lịch sử cho trống đồng là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu, nó tựa như một loại ấn tín vậy, đặc biệt trong lễ nghi đạo hiếu của Việt Nam thì các bậc vương hầu dùng trống đồng thay mặt người dân của mình để tế tổ tiên của cộng đồng. Chữ lợi ở đây có nghĩa là: dùng để
Lợi kiến hầu: dùng trong việc phong tước hầu .ngờ rằng sau chữ LỢI còn chữ DỤNG nhưng đã bị bỏ mất
Lợi hành sư: dùng để hành quân, quân theo tiếng trống mà tiến hoặc lùi hoặc sang phải, sang trái… công hoặc thủ v.v… trống trở thành một công cụ dùng trong quân sự.
Tóm lại : Tộc người nào có xử dụng trống đồng tộc đó là anh em của ‘ta’ vì cùng cúng tế 1 tồ tiên . Nơi nào có trống đồng thì đó là đất của ta vì thủ lãnh nơi ấy do vua ‘ta’ phong tước . Tới đây thì ta hiểu rõ tại sao vua Đông Hán ra lệnh cho mặt ngựa ( Mã Diện hay Viện ) tịch thu và phá hủy cho bằng hết trống đồng của người Việt .; ý đồ của chúng là  biến người Việt thành đám con hoang không cội nguồn đồng thời chặt đứt ước nguyện  trường tồn của dân tộc này …nhưng trời xanh có mắt…

  • Phần 3 : Trống đồng , Dịch học và sử Hùng Việt .
    ·Việc giải mã được những thông tin chứa trên mặt trống đồng Ngọc lũ đưa đến hệ qủa hết sức quan trọng với người Việt :
    Việc giải mã được những thông tin chứa trên mặt trống đồng Ngọc lũ đưa đến hệ qủa hết sức quan trọng với người Việt :Về cốt lõi của Sử thuyết Hùng Việt xin quy tập lại theo chủ đề : Trống đồng và Việt sử .
    Trống đồng là một trong những loại di chỉ khảo cổ học quan trọng nhất tìm được tại Đông Nam Á và phía Nam Trung Quốc. Trong các vùng này, các nhóm dân tộc đã sử dụng trống đồng từ thời tiền sử cho đến ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy trống đồng ở nhiều vùng khác nhau ở Đông Nam Á,
    Bắc Việt Nam và Tây Nam Trung Quốc (đặc biệt là tỉnh Vân Nam và khu tự trị người Tráng ở Quảng Tây là hai vùng nơi đại đa số các trống đồng cổ đã được tìm thấy. Ngoài ra, trống đồng còn được tìm thấy ở nhiều nước khác như: Indonesia, Thái Lan, Myanma, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippines và mới đây là Đông Timor.
    Nhà khảo cổ học người Áo Franz Heger đã phân loại trống đồng thành Trống Heger I ,Trống Heger II , Trống Heger III , Trống Heger IV , trong đó Trống Heger I là cổ nhất có niên đại gần 3000 năm cách nay .
    Năm 1976, người ta phát hiện loại trống nhỏ ở Vạn Gia Bá Trung Quốc và đặt tên là trống Vạn Gia Bá. , giới nghiên cứu Trung Quốc coi loại trống này là trống Tiền Heger nghĩa là có trước trống Heger I và là nguồn gốc của mọi loại trống Heger .
    Giới nghiên cứu Việt nam , Trung quốc và nhiều học gỉa quốc tế khác đến nay vẫn đang tranh luận về quê hương của trống đồng , tựu trung hiện đã khoanh vùng và đi vào điểm then chốt : quê hương trống đồng là Bắc Việt nam hay Quảng Tây – Vân Nam , nói cách khác… cuối cùng kết luận :Trống đồng là sản phẩm của tiền nhân người Việt hay người Hán .
    Trống đồng là trống làm bằng đồng chính xác hơn là hợp kim đồng thiếc và chì, khi dùng phát ra âm thanh như tiếng sấm nên còn gọi là ‘trống Sấm’ , xa xưa người Việt không gọi là trống mà gọi là ‘cối đồng’ , người Trung quốc gọi là ‘đồng cổ’ , từ ‘cổ’ hiện được dịch sang Việt ngữ là ‘trống’ có thể không chính xác , bản thân từ cổ cũng chỉ là kí âm chữ Nho của từ cối tiếng Việt . chày – cối Hán ngữ đọc là chử – cửu , cửu biến âm thành cổ ….thế là cối biến thành trống theo chữ nghĩa hiện nay .
    Người ta lấy đườnh biên Việt Trung hiện tại để phân định trống đồng gốc gác là của người Việt hay Hán là chuyện tầm phào rất ấu trĩ , gần ngàn năm trước công nguyên lúc trống đồng được làm ra làm gì có đường biên này ?.
    Cứ cho sử Trung quốc đang lưu hành́ là chính xác thì trống đồng Tiền Heger và Heger I làm ra vào thời nhà Châu .



 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . Zhou_dynasty_1000_bc_vi-a
hình lấy từ internet.
Với bản đồ nhà Chu trên thì rất rõ ràng người Trung quốc không thể nào là người đã làm ra trống đồng hay đồng cổ vì cho đến tận thời Chiến quốc thì Trung quốc cũng chỉ mới biết tới vùng đông Nam với 2 nước Ngô và Việt .
Với người Việt thì tiền nhân di ngôn về lãnh thổ cụ thể và rõ ràng : cứ tạm y như sách vở chép : nước Văn Lang Bắc giáp Động đình hồ , Nam giáp Hồ tôn , Tây tới Thục (Tứ xuyên) và Đông giáp Nam hải .

 Tổng kết về trống đồng và dòng giống Hùng . Vanlang
Không thể nói khác : chính người Văn Lang đã làm ra những chiếc trống đồng mà ngành khảo cổ tìm thấy ở Vân Nam Quảng Tây và Bắc Việt Nam .
Sử kí Tư Mã Thiên có ghi thông tin về việc vua nhà Chu cho Tần Mục Công một chiếc trống đồng vào năm 623 trước công nguyên , năm này vua Chu đang ở tận Thiểm Tây lấy đâu ra trống đồng …mà cho Tần công để làm gì ; Trống đồng đâu có gía trị qúy báu gì trong nền văn minh Hán , chẳng thế mà Mã viện đã đập bỏ nấu chảy cả đống trống đồng …
Đúng thực tổ tiên người Choang Đồng xưa đã chế tạo trống đồng ở Vân Nam Quảng Tây trong thời văn minh Văn lang – Âu Lạc tức không liên quan gì đến văn minh Hán , dĩ nhiên chằng dính dáng gì đến Trung quốc ngày nay . Tình cảnh Con cháu người Âu trong Âu Lạc thực là bi đát , người Trung quốc có thời gọi là Ai lao di theo nghĩa man Di chứ đám chăn ngựa rợ ‘thứ thiệt’ không hề biết : ai lao thiết Âu chính là chi tộc Âu trong nước Tây Âu – Lạc Việt , ngày nay họ được gọi chung là người Choang Đồng đang thực sự là những người ‘thất sở thân sơ’ ngay trên quê hương mình , Cách mạng Tân hợi đã giải phóng họ khòi kiếp nô lệ phục hồi địa vị làm người nhưng Choang Đồng vẫn chỉ là 1 dân tộc thiểu số không được kề đến trong 5 dòng tộc người Trung quốc là : Hán Mãn Mông Hồi Tạng … như thế xét ra thì quê hương Trống đồng chẳng liên quan gì đến Trung quốc và văn minh Trung quốc dù ngàn năm trước công nguyên được làm ra ở Vân Nam Quảng Tây .
·- Tổng luận
Tới nay với nhiều thông tin thu thập được
Đã có thể xác quyết : Kinh Dịch mô tả trống đồng ở quẻ Lôi địa Dự và ngược lại mặt trống đồng chính là 1 phần đồ hình Hà thư (đô)̀ Dịch học .
Xét ra như thế thì không chỉ trống đồng là thành tựu vật chất tiêu biều của văn minh Văn lang mà kinh Dịch cũng là thành tựu trí tuệ của tiền nhân người Việt xa xưa .
Kết luận này rất quan trọng vì đây là chiếc chìa khóa mở cánh cửa đi vào qúa khứ dòng giống Việt nói chung .
Kinh Dịch là trước tác của tiền nhân Việt thì tất nhiên cả Ngũ kinh Thi Thư Lễ Nhạc cũng là của người Việt và quan trọng hơn tất cả thông tin ghi chép trong Ngũ kinh đều thuộc về lịch sử và văn minh Việt . Tứ thánh làm nên kinh Dịch Phục Hy Văn vương Châu công Khổng tử đương nhiên là tiền nhân người Việt không cần bàn gì nữa .
Về lịch sử thì kinh Thư chính là cuốn sử đầu tiên vô cùng qúy gía của dòng giống Việt như vậy các vua từ Nghiêu Thuấn cho tới Tần Mục công năm 659 – 621 TCN chép trong kinh Thư dĩ nhiên là vua Việt không thể nào khác được .
Có thể nói : rấr rõ ràng lịch sử cổ đại Trung Hoa đang lưu hành chính là cổ Việt sử ‘

  • ‘con Rồng cháu Tiên’ không còn là truyền thuyết lịch sử mà chính thức trở thành lịch sử , một lịch sử được ghi chép rõ ràng trên sách ‘đồng’  bằng ngôn ngữ Dịch học đã phổ biến – lưu truyền 3000 năm nay .
    Truyền thuyết lịch sử Việt không phải chỉ có 1 chuyện ‘con rồng cháu tiên’ mà là cả 1 hệ thống những truyền thuyết tương đối hoàn chỉnh chứa đựng những thông tin của 1 thời gian dài mà ngày nay gọi là thời tiền sử , chỉ cần minh xác được 1 đọan trong cái chuỗi thông tin liên hoàn ấy cũng đủ để ta lượng gía  về  tính xác thực của cả hệ thống truyền thuyết lịch sử đang lưu truyền. .

  • Lịch sử và văn minh Việt có liên hệ ‘máu thịt’ với dịch lý từ khi người Hán chưa đặt chân tới mảnh đất này , những trống đồng cổ nhất có đến 3000 năm tuổi đã trở thành vật chứng chắc chắn -rõ ràng nhất giúp khẳng định : 
  • Dịch học là thành tựu trí tuệ tuyệt vời của tiền nhân người Việt ngày nay ..


Thứ Bảy, 28 tháng 10, 2023

Xem lại bài thơ ở điện Thái hoà .

 Bài thơ quan trọng nhất đặt ở bức hoành phi ngay gian giữa, bên dưới bức hoành phi lớn ghi chữ Thái Hòa Điện, được khắc trên gỗ, sơn son thếp vàng.

 

Nay đọc lại và suy ngẫm  bài thơ thấy …ý tứ thật lạ kỳ .

 

文獻千年國
車書萬里圖
鴻厖開闢後
南服一唐虞

 

Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu

 

Bài Tứ tuyệt này đã có nhiều bản dịch :

 

* bản dịch của Phạm Đức Thành Dũng :

 

Nước Việt đã ngàn năm văn hiến

Cơ đồ vạn dặm đã thống nhất hoàn toàn

Từ thuở Hồng Bàng mở nước

Trời Nam đã một cõi sánh với Đường, Ngu

 

* Bản dịch của nhà Sử học Dương Trung Quốc.

 

“Nước ngàn năm văn hiến

Vạn dặm một sơn hà

Từ Hồng Bàng mở nước

Thịnh trị nước Nam ta”

 

* 2 bản dịch khác

''Nước ngàn năm văn hiến

Đất vạn dặm hợp cùng

Đã mở mang lớn mạnh

Đường Ngu ở Nam phương''

 

Và

 

 Nước ngàn năm văn hiến,
Thống nhất muôn dặm xa
Từ Hồng Bàng mở cõi,
Trời nam một sơn hà

 

Nhận xét :

 ý tứ 3 câu đầu các dịch gỉa hiểu giống nhau hoặc ít ra sai khác không nhiều ,  riêng câu cuối bài thơ thì được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau , đôi khi  khác rất xa ,

 

Xin góp bàn :

 

Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu

 

Dịch

 

Quốc gia văn hiến ngàn năm có

Non sông vạn dặm một cơ đồ

Hồng bang khai quốc lập ngôi đế

Đường Ngu thu phục đất Nam Giao

 

Bài thơ được cho là của vua Minh Mạng nhà Nguyễn .

Trong bài trên theo thiển ý chữ Bàng trong Hồng bàng phải đổi thành Hồng bang thì câu thơ mới rõ nghĩa .

Thật là tuyệt vời Chỉ 4 câu thơ 5 chữ đã gói gọn được thông tin cơ bản về đất nước và Lịch sử thời đầu dựng nước của người họ Hùng .

Mở đầu  với sự khẳng định nước Việt là …

 

* Câu 1 : Văn hiến thiên niên quốc

 

Đất nước này đã trải ngàn năm văn hiến từ thời đế Minh cũng là đế Vàng – Hoàng đế  lập quốc , Ngàn năm  là từ ước lệ dùng trong thơ văn chỉ quãng thời gian dưới vạn năm . Với lịch sử Việt tính từ thời lập quốc thì nay đã là 5 – 6 ngàn năm tuổi .

 

* Câu 2 : Xa thư vạn lý đồ

 

Thiên hạ từ thời nhà Châu về trước cấu thành bởi Trung hoa tức nước Trung tâm và văn minh nhất do vua trực tiếp cai trị cộng với các nước chung quanh gọi là chư hầu do qúy tộc được vua phân phong cai trị , qua thời gian dài vài trăm năm xa cách , theo quy luật tự nhiên mỗi nước hình thành nền văn hóa riêng thậm chí dần dần khác nhau tới nỗi người các nước nếu không học sẽ không thể giao tiếp bằng lời nói và chữ viết .

Tần thủy hoàng sau khi thống nhất Thiên hạ đã ra lệnh …  ‘Thư đồng văn , Xa đồng trục …’ buộc cả thiên hạ  phải  thống nhất dùng 1 loại chữ viết gọi là Tiểu triện dân gian gọi là chữ Nhỏ  ở Việt nam chữ Nhỏ biến âm thành ra chữ ‘Nho’ và để  cho việc giao thông được thông suốt theo 1 chuẩn đường đi chung tất cả  trục bánh xe trong Thiên hạ thống nhất chiều dài là 6 thước cổ khoảng 1,8 m ngày nay .

Từ tích  ‘Thư đồng văn , Xa đồng trục …’ thời nhà Tần  , trong bài cặp từ ‘Xa – Thư’ được dùng chỉ sự ‘đồng nhất’ về văn minh trongmọi miền đất nước  …Non sông vạn dặm một cơ đồ   .

 

* Câu 3 : Hồng bàng khai tịch hậu.

 

Tư liệu cổ sử Việt cho biết quốc đô đầu tiên thời lập quốc là Ngàn hống ở đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh sau mới dời  về kinh đô thứ nhì  ở Phong châu – Phú thọ  ở Bắc bộ , từ đấy  Ngàn Hống gọi là Cựu đô .

Tư liệu lịch sử Trung hoa chép thoạt kỳ thủy Trung hoa chỉ có đất Đào và Đất Đường , sử thuyết Hùng Việt cho Đào và Hồng là 1 , Đường cũng là Thường người Việt gọi là Việt Thường . Lãnh thổ trải dài theo chiều Bắc – nam ấn định theo độ  nóng – lạnh , xưa hướng Bắc biến âm của Bức là hướng Xích đạo ; đào – hồng – xích đều là màu đỏ và đất Đào còn gọi là châu Đào thời đầu dựng nước nay là vùng Thanh Nghệ Tĩnh , dấu tích còn lại là  dãy núi Hồng lĩnh  , đất Đường – Thường dùng theo nghĩa  nghĩa bình thường , thường thường chỉ  hướng không nóng ngược với hướng Bức – nóng  Xích đạo , Đất Đường hay Thường thời lập quốc là lưu vực sông Đà ngày nay  , theo Dịch học hướng nóng có màu đỏ , hướng ngược lại  màu đen  vì thế mà sông Đà xưa còn có tên là Hắc thủy – sông đen hay sông mờ . Sông Đà cũng chính Đan thủy là nơi Hoàng đế đánh bại Hoan Đâu chúa Tam miêu trong cổ sử Trung hoa , Đan – Đơn chỉ là biến âm của Đen tiếng Việt  .

Truyền thuyết Lịch sử Việt nói : Đế Minh cháu 3 đời của Thần nông Viêm đế đi tuần thú phương Nam  chỉ ra đế Minh mở nước trước ở phương Bắc xưa hướng Xích đạo nóng – đỏ sau tiến về phương Nam – màu đen hoàn tất công cuộc dựng nước vĩ đại  hoàn toàn đúng với câu :

Hồng bang khai quốc lên ngôi chúa

Hồng bang là bang quốc ở phía nóng – Xích đạo , ở phía ngược lại gọi là Nam bang .

 

* Câu 4 : Nam phục nhất Đường Ngu

 


 Đây là câu thơ cực kỳ khó hiểu nhưng lại là cái chìa khóa mở thiên cổ sử Việt đích thực .

2 từ Đường – Ngu trong bài thơ không thể hiểu khác là chỉ 2 triều Đường Nghiêu – Ngu Thuấn của cổ sử Trung hoa , tại sao vua Minh Mạng lại đặt vào bài như là  sự nối tiếp thời Hồng bàng khai tịch hậu ?.

Cổ sử Việt viết :đế Minh khi sau khi xây đựng xong kinh đô trên  đất Đào tức  hồng lính đi ‘tuần du’  phía  Nam đã xây dựng ‘cơ sở’ 2 và lập hành cung  trên đất Đường phương Nam (phương hướng xưa) , xong suôi vua trở về Hồng lĩnh .

Vua truyền ngôi đế cho con trai trưởng là ông Giao Thường tước hiệu là Đường vương , Đường vương kế ngôi sử gọi là đế Đừơng Nghiêu không đặt kinh đô trên  đất Đào mà  định đô ở hành cung của vua cha trước trên đất Đường tức Bắc ngày nay , triều đại của đế Đường Nghiêu gọi là  Nam triều cũng có tư liệu gọi là Nam bang.

Sách Thượng thư chép vua Nghiêu …mệnh Hy thúc trạch Nam Giao  tức lệnh cho Hy Thúc đến cõi đất phía Nam Giao chỉ .

Thực vậy chữ Nam Giao trong thượng thư nghĩa đích thực là  đất phía nam (xưa nay là Bắc) Giao chỉ không phải nghĩa là…đất Giao chỉ ở phía Nam Trung quốc . Giao chỉ là 2 từ Việt ngữ bị ký âm sai lạc đi ; Giao là biến âm của Giữa , chỉ là chỗ , là nơi chốn , Giao chỉ nghĩa là miền đất ở giữa tức  vùng Trung tâm Thiên hạ , theo mạch câu văn thì vua Nghiêu chỉ có thể từ vùng Giao chỉ – đất Giữa lệnh cho Hy Thúc đi đến phía Nam chứ không thể ở nơi nào khác và đất ở về  phía Nam Giao (Bắc – Nam nay đã lộn ngược ) mà ông Hy Thúc đến chính là Đất Quảng Tây và Đông Vân Nam ngày nay  . đất Nam Giao  sau mở rộng thành cõi lĩnh Nam chứ không phải Lĩnh Nam là đất phía nam Trung quốc như đang hiểu .

 

Có người dịch câu Nam phục nhất Đường Ngu là người nước Nam kính phục nhất là 2 vua Đường Nghiêu – Ngu Thuấn .

Người Việt mà đi kính phục nhất 2 ông vua Tàu thì nước Việt làm sao có thể coi là …Văn hiến thiên niên quốc , lại nữa nếu hiểu như nghĩa này thì ý tứ câu thơ sau chẳng ăn nhập gì với câu trước … Hồng bàng khai tịch hậu xong kế tiếp là … dân Nam kính phục 2 ông vua Tàu ….thật chẳng ra nghĩa ngọn cả …

Xét tới đây thì câu : Nam phục nhất Đường Ngu với  nghĩa “Đường Ngu thu phục đất Nam Giao” là có căn cứ lịch sử vững chắc : Đế Minh hay Hoàng đế lập quốc kế đến đế Nghiêu – Nghi và đế Thuấn mở rộng biên cương về hướng Nam hoàn toàn đúng với những gì chép trong sách xưa không phải là câu nói vu vơ .

Thắc mắc ...chuyện : xe  và sách là chuyện của Tần thủy hoàng và nước Trung hoa đâu có dính dáng gì đến Việt Nam nên xa - thư biểu hiện của  đất nước thống nhất chỉ đúng ở bên Tàu bên ta không dùng được trừ khi nhìn nhận con dân đại Việt Nam là hậu duệ đích dòng của Tam hoàng Ngũ đế .

Chủ Nhật, 14 tháng 3, 2021

Góp bàn với TS Trần trọng Dương

 Ngay phần mở đầu TS Trần trọng Dương đã đi vào trọng tâm bài khảo cứu với hàng chữ không thể hiểu …

…Người Việt đến từ đâu luôn là câu hỏi mang tính triết học,..
Nguồn gốc dân tộc là vấn đề thuộc khoa học lịch sử , lịch sử ghi chép lại một cách cụ rhể những gì đã thực sự diễn ra sao có thể là câu hỏi mang tính Triết học , triết học bản chất là trừu tượng .
Về câu hỏi người Việt là gì ? (ai?) cũng chẳng khó trả lời
Người Việt là những người mang quốc tịch Việt Nam , ở đây người Việt đồng nghĩa với dân tộc Việt , dân tộc kết thành từ nhiều sắc tộc hay dòng tộc khác nhau và người Việt có thể hiện sống trong nước hoặc ngoài nước .
Trong các dòng tộc của dân tộc Việt nam nòng cốt là tộc người KINH là dòng tộc đa số , những người xưa đã kiến lập tiền thân nước Việt Nam ngày nay bên cạnh những tộc thiểu số Ở thời điểm khai quốc chưa có mặt trên lãnh thổ Việt Nam và được dung nạp về sau trong suốt chiều dài lịch sử .
Như thế nếu truy nguyên nguồn gốc thì tổ phụ tộc người Kinh đồng thời chính là quốc tổ Hùng vương còn với những tộc người thiểu số chiếu theo sách sử hiện nay Hùng vương có thể không là tổ phụ dòng tộc nhưng hiển nhiên vẫn là quốc tổ của họ .
Sự việc tách phân rõ rệt chẳng có gì là̀ cưỡng bức đồng hóa theo đa số cả .
Đặc biệt xét trong nguồn cơn lịch sử 2 từ người Việt tùy theo bối cảnh còn được dùng chỉ chung con chắu người Bách Việt ở Hoa Nam xưa , ngoài ra người Việt tuy ở phạm vi hẹp đôi khi vẫn dùng chỉ cư dân Lưỡng Quảng ,do người Việt Đông và Việt Tây cùng với tiền nhân người Việt Nam xưa cùng là con dân nước Nam Việt thời đầu công nguyên và gần gũi hơn là nước Đại Việt kiến lập năm 917.
Người Việt trong câu hỏi của TS Trần theo tôi là nói đến người Việt dòng tộc Kinh thành phần chủ chốt đã tạo nên người Việt Nam ,tạo nên văn hóa văn minh và trước hết là lịch sử Việt Nam .
Tác giả Trần Trọng Dương viết :
Về một phả hệ Hán trong dòng sử chí Nho giáo
 

Kỷ về Hồng Bàng thị là một sáng tạo truyền thống (invented traditon), là một sáng tạo lịch sử của Ngô Sĩ Liên, trong đó tập hợp các huyền thoại về quốc tổ của các thể chế chính trị Nho giáo Hoa Hạ, với các truyền thuyết dân gian.

Sơ đồ và dẫn giải của tác gỉa thực không hiểu nổi , làm sao Ngô sĩ Liên lại có thể sáng tạo ra lịch sử cho người Việt ,như Đức Khổng tử xưa khi san định Ngũ kinh đã nói …‘thuật nhi bất tác’, lịch sử ghi chép lại những gì đã diễn ra trong qúa khứ thì chỉ có thể chân xác hay không chứ làm gì có sáng tạo ?.
Trong phả hệ trên ngoại trừ Thần nông các …huyền thoại về quốc tổ của các thể chế chính trị Nho giáo Hoa Hạ không có dòng nào nói đến các vị khác , Từ đế Minh về sau tất cả chỉ ghi chép trong truyền thuyết Việt , như thế không thể nói đã có sự tập hợp 2 nguồn sử truyền thuyết ta và sử liệu Tàu .
Không biết từ lúc nào mà có lối suy diễn hễ …điều gì sách ta có và sách Tàu cũng có thỉ y như rằng mặc nhiên cho là ta chép của Tàu , sao không nghĩ ngược lại hay coi đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên ̉ ?

Ngô Sĩ Liên mở đầu sách đại Việt sử kí toàn thư
Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị đến ở Nam Giao để định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu thì Bách Việt4 thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị , tên Việt bắt đầu có từ đấy.
Liệu đấy có phải là cơ sở để tác già viết bài khảo luận này ? :
Ngô sĩ Liên có thể không chính xác hoàn toàn nhưng chắc chắn không thể bịa đặt vì tất cả thông tin dẫn ra đều có trong tư liệu hơn nữa ở thời ông còn cà ngàn kẻ Sĩ khác làm sao qua mắt họ mà lấy tay che trời , xét ra như thế không thể có việc ….hàng loạt các vị Hoàng đế viễn cổ huyền thoại của Hoa Hạ đã được lắp ghép vào bảng phả hệ chính trị Đại Việt .
Xin hỏi lâu nay dựa vào đâu để khẳng định Hoa hạ là Tàu ngày nay
Trong nền văn minh Thiên hạ thì Hoa hạ chỉ dân sống ở Trung quốc tức chính quốc nơi vua sống và triều đình trung ương quản lí còn Di hạ chỉ người sống trong các Hầu quốc thường gọi là chư hầu nghĩa là các nước Hầu .
Mỗi triều đại Thiên hạ lại có 1 chính quốc hay Trung quốc khác vì thế cũng có 1 Hoa hạ khác , Hoa hạ thời Thương không phải là Hoa hạ thời Châu , nếu lấy thời Hạ làm chuẩn thì người nhà Thương con cháu vua Thuấn là Đông Di , người nhà Châu của Văn vương là Tây Di nhưng sang thời nhà Châu thì đám Tây Di xưa lại trở thành người Hoa hạ nên câu …các vị Hoàng đế viễn cổ huyền thoại của Hoa Hạ trở nên chẳng ra nghĩa ngọn gì , Hoa hạ là Hoa hạ nào ? đâu có dòng tộc nào là Hoa hạ hay người Hoa hạ trong suốt chiều dài lịch sử của Thiên hạ mà nay thường gọi sai là Trung hoa theo nghĩa Trung quốc – Hoa hạ .
Tác gỉa viết …Ngô Sĩ Liên cho rằng, nguồn gốc của thế chế chính trị Đại Việt thời ông là bắt nguồn từ mô hình chính trị trong kinh điển Nho giáo.
Theo tôi thì chẳng làm gì có cái gọi là :mô hình chính trị trong kinh điển Nho giáo , nước có vua có quan có dân cả thế giới đều như vậy không riêng gì ta với Tàu mà nói đến 1 mô hình chính trị trong kinh điển Nho giáo.
Cái khác không phải là mô hình mà ở phần tư tưởng ,vài ví dụ nho nhỏ về tư tưởng ở xã hội theo Nho học là cùng thời đại nơi khác trên thế giới vua là chúa trời toàn quyền sinh sát thì Nho giáo phổ biến quan điểm cực kì phản động : Dân vi qúy xã tắc thứ chi quân vi khinh .
Trong nền chính trị phương Đông vua được giáo huấn …ngồi lúc nào cũng phải nhìn về hượng Nam (Nam diện) tức hướng Nom để thấu hiểu dân tình ; theo Dịch học hướng Nam là hướng của dân hay của bá quan trong các buổi thiết triều .
Và rất rõ ràng :vua phài ra vua còn vua là kẻ đê tiện thì giết vua không phải là giết vua mà là giết kẻ đê tiện .v.v.

Phần khác nhau lớn nhất ở  những nước  bị chi phối bởi tư tưởng  Nho gíao và nước khác là phần tuyển chọn người làm quan để quản lí xã hội  , ở các nước khác  giới quan lại thường 1 là con gìòng chãu giống nối nhau cai trị ...con vua thì lại làm vua , con sãi chùa lại quyét lá đa và 2 là bọn võ biền có nhiều chiến công còn trong những nước tư tưởng  Nho giáo chi phối thì bên cạnh 2 thành phần trên còn có phần đông  các Nho sĩ được truyển chọn thông qua thí tuyển .Rõ ràng so ra thì ở cùng thời đại xã hội theo tôn chỉ Nho giáo văn minh  hơn nhiều .

TS Trần viết : Hệ quả của nhận đồng chính trị dẫn đến nhận đồng lịch sử và nhận đồng nguồn gốc dân tộc:

sự ‘dẫn đến’ này ̀ hoàn toàn không hợp lí lẽ : nhận đồng chính trị không thể bắt quàng sang nhận đồng lịch sử , nếu nói thế chẳng khác nào nói …nhật thực làm vua mất ngôi , 2 phạm trù khác biệt không thể liên thông kì cục như thế ví dụ như ta và Cu ba ngày nay cùng theo xã hội chủ nghĩa , có phải là nhận đồng chính trị hay không như vậy không lẽ vài trăm năm nữa thì người Việt và mấy ông râu xồm đồng lịch sử và nhận đồng nguồn gốc dân tộc:?.Nho giáo không chỉ có thời là nền tảng tư tưởng ở Việt và Tàu mà còn cả ở Triều tiên và Nhật bổn vậy vua quan nước ‘củ Sâm’ và ‘mặt trời mọc’ có nhận mình là người Hán không ?.
Tôi thông cảm với tâm tư của TS Trần …bức súc chống đến cùng nhận định người Việt là một nhánh di cư của người Hán, tổ tiên của người Việt là người Hán, lịch sử Hoa Hạ dài bao nhiêu, lịch sử Đại Việt dài bấy nhiêu.
Phải chăng Chính vì ý định chống đến cùng mà bằng mọi cách phải chống lại phản bác ý kiến trên mà trong bài TS Trần có nhận định khiên cưỡng lộ ra nhiều sơ hở trong lí luận .
Sử thuyết Hùng Việt cám ơn TS TRần về những thông tin đã nêu ra :
…Sử liệu Hán văn từ thế kỷ 12 về sau đều cho thấy, với quan điểm văn hiến- lễ giáo ở đâu thì nơi ấy là trung tâm của chính trị, các triều đình quân chủ từ Lý- Trần- Lê- Nguyễn đều tự coi nước mình là “vương quốc trung tâm” với các danh xưng tự nhận là Trung Hoa, Trung Châu, Trung Quốc.
…Sự nhận đồng được đẩy lên đến đỉnh điểm vào triều Nguyễn, khi các hoàng đế quân chủ của triều đại này như Gia Long- Minh Mệnh- Thiệu Trị- Tự Đức và các sử gia Nho thần, coi rằng mình là hậu duệ chính thống của Hán nhân,
Các văn bản triều đình nhà Nguyễn (như Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí, Đại Nam thực lục,…) đều tự xưng mình là “Hán nhân”, còn những nhóm người đến từ Trung Quốc được gọi bằng tên của các triều đình đương nhiệm, như Thanh nhân (người nhà Thanh), Minh nhân (người nhà Minh).
…Triều đình nhà Nguyễn cho rằng, nhà Thanh là một triều đình có nguồn gốc di rợ, họ là những người đến từ phía Bắc, và cai trị người Hán.
triều Nguyễn đã khẳng định mình mới là hậu duệ chính thống của Hán tộc (cả về mặt huyết thống lẫn văn hóa- chính trị). Đây chính là lý do khiến các Nho sĩ triều Nguyễn (từ vua đến quan) đều tự nhận rằng mình là Hán nhân.

Sử thuyết Hùng Việt có thể là liều thuốc hóa giải tâm tư bị dồn ép cực độ không phải riêng ông Trần trọng Dương mà còn cho rất nhiều người khác.
Trong Lịch sử Thiên hạ có đến 2 dòng tộc gọi lả Hán bị đám cạo sử dồn ép thành một trong ngụy sử Trung hoa mập mờ đánh lận con Đen lừa mọi người .
Sau khi đánh đổ nhà Tần nổ ra ̀ cuộc chiên tranh giữa Lưu Bang và Hạng Vú , sử sách gọi là Hán Sở tranh hùng .
Sử thuyết Hùng Việt cho : Hán – Sở chỉ là biến âm hay kí âm sai lệch của cặp từ lưỡng lập Dịch học :
Hên – Sui , Hơn – Thua hay Hưng – Suy
Ông Lưu Bang thắng nên sử gọi tức Hên – Hơn – Hưng vương sử Tàu biến ra Hán
Khái lược Phả hệ dòng Hán – Hưng .
Tam hoàng
Ngũ đế
Tam Đại
Tần
Hán- Hưng
Tân – Vương Mãng
Mất nước bị Hán Du Mục thống trị Sử thường gọi là thời Bắc thuộc .
………………..
Phục hưng thời Bắc Châu sau cùng truyền đến thời Thiên hạ 3 nước
Đại Việt – Đại Lí và Đại Tống sau thời Hoa Nam thập quốc .
Mông cổ và Mãn Thanh chiếm Đại Lí và Đại Tống lập ra Trung quốc ngày nay
Duy nhất Đại Việt vẫn độc lập tự chủ nối tiếp quốc thống Hữu Hùng quốc kiến lập từ thời đế Hoàng ( đế màu Vàng) .

Hạng Vũ thua nên thành Sở vương tức Sui – Thua – Suy vương
Sử Tàu viết Hán vương Lưu Bang lập ra nhà Tây Hán đây chính là điểm gút của sự tráo đổi , Đông Hán nối vào Tây Hán liền 1 mạch hợp lí qúa đi chứ người đời khó mà nhận ra .
Thực ra Đông Hán là triều đại của 1 dòng giống Hán khác .
Dân du mục phía Bắc Thiên hạ gọi chúa của họ là Khan , tư liệu Hán văn viết thành Hãn , nước của hãn là hãn quốc , lính của Hãn gọi là Hãn quân sau danh từ chung hãn biến ra danh từ riêng Hán gọi triều hay nước đầu tiên và vài nước về sau của dòng tộc Hán du mục .
Khái lược phả hệ Hán – hãn du mục
Thiền Vu Mao Dun
Lục lâm thảo khấu
Lưu Huyền Hán Canh Thủy
Lưu Tú Hán Quang Vũ
Tào Ngụy
Tấn
Ngũ Hồ thập lục quốc
Bắc Ngụy
……………………
Sau cùng là 2 triều Đại Hãn quốc Nguyên của người Mông cổ và Mãn Thanh của bộ tộc Nữ Chân rợ Đông Hồ .

Kết :

  • Các triều đình quân chủ từ Lý- Trần- Lê- Nguyễn đều tự coi nước mình là “vương quốc trung tâm” với các danh xưng tự nhận là Trung Hoa, Trung Châu, Trung Quốc. là hoàn toàn Chính đáng .
  • Triều đình nhà Nguyễn cho rằng, nhà Thanh là một triều đình có nguồn gốc di rợ, họ là những người đến từ phía Bắc, và cai trị người Hán.
    Triều Nguyễn đã khẳng định mình mới là hậu duệ chính thống của Hán – Hưng tộc đồng thời là kẻ thù truyền kiếp của dòng Hán – Hãn du mục ..là .hoàn toàn ĐÚNG .

Thứ Hai, 5 tháng 10, 2020

Chung quanh tuyện chị Hằng cung Trăng

Truyện cổ tích tết Trung Thu .

Mẩu truyện số 1.
Phần cốt lõi mở màn là 2 nhân vật Hậu Nghệ và Hằng Nga .
Thời nhà Hạ Hậu Nghệ là anh hùng đã bắn rụng 9 mặt trời để cứu Thiên hạ thóat khỏi cảnh chết thiêu .
Hậu Nghệ có vợ là Hằng Nga hay Thường Nga nguyên là thần tiên trên Thượng giới do mắc lỗi mà bị Ngọc Hoàng thượng đế đày xuống trần gian sống kiếp con người .
Tới đoạn này thì ngoài Hằng Nga và Hậu Nghệ trong câu truyện đã xuất hiện 1 nhân vật quyền uy tột đỉnh là Ngọc Hoàng thượng đế .
Hằng Nga hay Thường Nga ở trần gian là cô gái đẹp sống nơi thôn dã rất ư là bình thường , Hậu Nghệ sau được dân ‘răng Đen’ tôn làm hoàng đế nước Hữu Cùng ven bờ biển Đông .
Truyện kể Hậu Nghệ được Tây vương Mẫu tặng viên thuốc Trường sinh dặn là 2 vợ chồng uống mỗi người 1 nửa để trở lại làm thần tiên bất tử . Nghệ qúy lắm giấu trong cái hộp giao cho vợ giữ . 1 hôm Nghệ đi vắng ,,,Hằng Nga táy máy thế nào mà viên thuốc Trường sinh lọt vào miệng không làm sao lấy ta được đành nuốt suống …tự nhiên bay tuốt lên không trung bất đắc dĩ trở thành phi hành gia đầu tiên của loài người không cần phi thuyền …, bay mãi tới mặt Trăng và dĩ nhiên chẳng làm sao xuống được nữa . Hậu Nghệ nhớ vợ chỉ còn biết nhìn trăng mà sầu khổ bèn … bày ra nhậu nhẹt cho đỡ buồn , kể từ đó dân gian có tết Trung thu , rằm tháng 8 tụ họp ăn uống ngắm trăng .

Mẩu truyến thứ 2 .
Chàng Tiều phu tên là Cuội vào rừng đốn củi gặp phải ‘ồ’ cọp có 4 cọp con , Cuội liền cho mỗi con 1 bụ́a đi đời nhà ma … bỗng cọp mẹ về Cuội hoảng vía leo tuốt lên ngọn cây ngồi run rẩy ….không ngờ được chứng kiến cảnh tưởng không thể có ….cọp mẹ dùng lá 1 loại cây rừng cứu các con sống lại…rồi dông mất thế là sui mà hên Cuộc vớ được cây ‘cải tử hoàn sinh’ đem về nhà trồng , từ đấy trở thành ‘lương y như từ mẫu’ (dĩ nhiên chữa bệnh free) , trong số người được cứu giúp có người con gái sau thành Cuội phu nhân . Vợ cuội là gái nông thôn quen sống hài hoá với thiên nhiên , chẳng biết đến WC đã thản nhiên …tưới vào gốc cây thần , đến thần cũñg không chịu nổi mùi của vợ Cuội phải nhổ rễ bay lên , thấy thế Cuội bám vào rễ cây định kéo xuống nhưng than ôi …cây Đa thần cứ bay lên mãi cuối cùng đưa phi hành gia thứ 2 của nhân lọai dùng tên lửa đẩy là cây Đa đáp xuống mặt Trăng . Cuội nhớ nhà lắm dân gian từ mặt đất vẫn nhìn thấy Cuội ngồi mãi dưới gốc Đa .

Mẫu truyện thứ 3 .
Truyện thứ 3 này nói về Thỏ ngọc trên cung Hằng ,muốn cho đủ bộ lấp đầy cái gì đó nhưng người viết hết ý rồi nên viết truyện Thỏ Ngọc lên cung Trăng làm bạn với chị Hằng 1 cách hết sức đơn gỉản kì cục …sợ người khác chết đói thỏ tự nguyện nhảy vào đống lửa làm món thỏ nướng cho người ta ăn ….nào ngờ hành động cao cả khác thường đó được thần tiên ghi nhận và thỏ được phần thưởng đặc biệt… lên cung Trăng bầu bạn với chị Nga …

Những nhân vật thần thọai gắn liền với tết Trung thu rằm tháng 8 Âm lịch không được kể chung trong 1 câu truyện mà bằng những truyện khác nhau , thoáng qua tưởng chỉ là những mẩu rời rạc không liên quan gì với nhau , kì thực khi dùng nhãn quan Dịch học mà xem thì ra đây chính là Ngũ hành được dân gian vận dụng 1 cách độc đáo tài tình đưa Dịch học vào kho tàng văn chương bình dân . .

Trước hết là câu hỏi …tại sao trung Thu rằm tháng 8 lại liên quan đến mặt Trăng ?.
Dịch học quan niệm vòng tuần hoàn theo Tứ tượng thì phía Đông là ban ngày , mùa Xuân thần chủ là mặt Trời , ngược lại rằm tháng 8 là giữa Thu , thuộc phía Tây ban đêm do mặt Trăng làm thần chủ , chính vì thế trung Thu trở thành ngày Tết của chị Hằng thần mặt Trăng .
Phần thứ 2 ta xét đến vấn đề tên gọi Hẳng Nga hay Thường Nga .
Về mặt chữ nghĩa thì mấy ông Tàu nói cho xong ….Hằng thông nghĩa với Thường nên Hằng Nga cũng được và Thường nga cũng được luôn không sao cả , nói vậy nhưng đám Tàu học thật không học gỉa luôn dùng từ ‘Thường nga’, chương trình nghiên cứu mặt Trăng của họ cũng dùng tên Thường Nga chứng tỏ thực ra họ đã xác định rõ rồi nhưng tảng lờ .
Đem ánh sáng Dịch học soi rọi thì nhận ra :Trong mặt phẳng thẳng đứng hành Hoả ở phía trên , Thủy ở phía dưới , 2 nhân vật Hậu Nghệ và Thường Nga làm thành 1 cặp đối ứng theo phép lưỡng lập .
Xét các từ khoá :
Nghệ nghĩa là đỉnh cao đối phản với Thường tiếng Việt là bình thường sàn sàn như nhau không có gì nổi trội . về tầng lớp xã hội thì Nghệ thuộc hàng qúy tộc lãnh đạo còn Nga chỉ là thường dân .
Xét ra thì Hậu Nghệ thủ lãnh cao cả đối lại với Thường Nga người đẹp dân dã là hợp li ́(xin đừng lầm ..dân thường là bèo qúy tộc mới sang ,đừng quên Nho giáo quan niệm Dân vi qúy ,Xã tắc thứ chi , Quân vi khinh) . ai đó không biết vô tình hay cố ý lẫn chữ Thường như trong bình thường , dân thường với chữ thường trong thường xuyên thường trực đồng nghĩa của hằng xuyên luôn có luôn như thế mà nàng Thường Nga đã biến ra Hằng Nga . chẳng liên quan gì tới thông tin vợ Hậu Nghệ là …cô gái đẹp hiền hậu nết na nơi thôn dã (nghĩa của thường nga) . Phải chăng là ai đó muốn ém nhẹm thông tin về địa lí mang trong bản thân tên gọi ?.
Hậu Nghệ hành Hoả cùng với Thường Nga hành Thủy làm thành cặ̣́p Lưỡng lập theo Dịch học xác định trục : Thủy – Hoả , trên – dưới , Bắc – Nam tương tự thời thái cổ Thiên hạ có 2 ông Cao Giao và Giao Thường là thủ lãnh phần đất Đào – Giao chỉ phía Bắc và Đường hay Thường – Giao chỉ phía Nam xưa vậy .
Ngũ tượng Trung thu ngoài Hậu Nghệ – Thường Nga là trục trên dưới hay Nóng – Lạnh , trục Đông Tây được lập bởi Thỏ Ngọc và Cây Đa . Từ khoá Cây giúp nhận ra hành Mộc phía Đông , Cuội có thể là biến âm của ‘cội’ nghĩa là ‘gốc’ ứng với câu …thằng Cuội ngồi gốc cây Đa hoặc cũng có thể biến âm từ ‘cối’ trong từ kép cây cối , cối có thể là từ Việt cổ cũng nghĩa là cây ngày nay không còn dùng .
Theo Dịch học thông hành phía Tây là hành Kim theo nghĩa Kim loại nhưng ở đây cây Đa đã là hành Mộc phía Đông thì chỉ còn lại mỗi biểu tượng là Thỏ Ngọc nên buộc phải là tượng của phía Tây . Khác với Dịch học Tàu ,Dịch học Hùng Việt cho phía Tây thuộc hành Thổ nghĩa là đất đá khoáng vật nói chung đối phản với thực vật ở phía Đông ; ‘Thỏ’̉ chính là ‘ Thổ’ như thế trong câu truyện dân gian về Trung Thu Thỏ Ngọc cùng với cây Đa đã tạo thành trục Đông Tây hợp với trục trên – dưới là Hậu Nghệ và Thường Nga hoàn chỉnh mặt phẳng đứng trong không gian 2 chiều .
4 hành đã xác lập hành còn lại là trung tâm điều phối chuỗi phản ứng theo Dịch học Hùng Việt phải là hành Kim , bỏ qua mặt chữ viết nếu chỉ xét âm thì Kim là hiện giờ lúc này trung điểm của qúa khứ và tương lai trong trục thời gian ,
Trong Ngũ kim thì Kim là Vàng đứng ở giữa ̣,
Kim biến âm thành Cam tiếng Việt cũng là màu vàng trung tâm ngũ sắc ,
với Ngũ Vị thì Cam là vị ngọt ở trung tâm .
Trong tích truyện Trăng Trung Thu thì từ khóa Hoàng trong danh hiệu Ngọc Hoàng thượng đế đã xác định vị trí hành Kim của vị thần tối cao này .

Tóm lại :Truyện cổ tích về tết Trung Thu lưu truyền trong dân gian Việt từ lâu đời nay xem xét dưới ánh sánh Dịch học đã chỉ ra :

  • Tên của thần mặt Trăng là Thường Nga không phải là Hằng Nga tức kể từ nay chị Hằng vĩnh viễn lui vào qúa khứ :
  • Trong Ngũ hành thì phía Tây là hành Thổ tượng của đất đá khoáng vật và Kim là hành ở Trung tâm .
    _ Với Hậu Nghệ thì ngoài những yếu tố đã xác lập trong bài viết trước :
    Hậu Nghệ là người nước Hùng , Hùng là quốc gia ở ven biển Đông và dân chúng có tục nhuộm răng Đen nay có thêm thông tin về văn hóa tín ngưỡng rất quan trọng : người nước Hùng theo đạo thờ ‘Mẫu’ , thông tin có được nhờ
    tích Tây vương Mẫu tặng thuốc trường sinh cho Hậu Nghệ . Mẫu là đạo thờ Me tôn gíao của riêng người Việt , đạo Mẫu có từ xa xưa lắm và truyền đến tận ngày nay ̣ , trên đất Việt từ Bắc chí Nam hiện còn không biết bao nhiêu điện thờ Mẫu , điểm đặc biệt các mẫu được thờ hầu hết là danh nhân anh hùng đất Việt . Dám hỏi mọi người với những bằng chứng đã tìm thấy liệu đã đủ thông tin để xác định về đất đaỉ và người dân của nhà Hạ hay chưa?.
    Xin bàn thêm 1 chút bên lề …có dị bản của tích Hậu Nghệ Thường Nga đổi Tây vương Mẫu thành Phật bà quan Âm , thật buồn cười người viết chẳng suy xét gì cả ….thời nhà Hạ 4000 năm cách nay thì ‘thế gian’ đã làm gì có đạo Phật mà có Phật bà quan Âm…, cứ cái kiểu cạo sửa vẽ vời tùy tiện này thì thời gian nữa nếu có dị bản viết đức mẹ MARIA tặng thuốc trường sinh cho Hậu Nghệ cũng chẳng có gì là lạ ….

Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2020

Xem lại 1 quãng sử và 1 thần tích - phần 2

Đền Đồng cổ thờ thần Đồng cổ ở núi Khả Lao nay thuộc Đan nê tỉnh Thanh hóa là ngôi đền rất cổ đã có từ thời Hùng vương .
Sách “Thanh Hóa kỷ thắng”  viết về đền Đồng Cổ: “…Trong đền thờ thần có trống đồng (…). Nguyên thần là tinh khí của trái núi, rất linh ứng. Xưa Hùng vương Nam chinh (nguyên văn là …đi đánh Chiêm thành nhưng thời Hùng vương đã làm gì có nước Chiêm thành , tư liệu khác viết đi đánh Hồ Tôn ) trú binh dưới chân núi Khả Lao, đêm mộng thấy thần nhân nói rằng:

  • Nguyện được đem trống đồng đi phù trợ vương chiến thắng.
    Đến khi lâm trận, cứ nghe trong không trung mơ hồ âm thanh của trống đồng và đao kiếm. Quả nhiên thu được toàn thắng (…).
    Đến thời Lý Thái tổ, người Chiêm Thành xâm phạm bờ cõi. Khi ấy, Thái Tông đang là Thái tử. (….) Canh ba, vua mộng thấy một người dáng dấp rất to lớn, mình mặc chiến bào, tay cầm bảo kiếm nói rằng:
  • Ta là thần núi Đồng Cổ, nay nghe Thánh giá nam chinh, nguyện đi theo lập công.
    Thắng trận trở về vua Lý Thái Tông rước thần núi Đồng Cổ về Thăng Long đập đền Đồng Cổ để thờ và lấy đền làm nơi tổ chức Hội thề hằng năm .
    (phần trích tư liệu trên internet)
    Có nhà nghiên cứu đã nhận định chính xác : đền Đồng cổ hay đền Trống đồng thờ thần núi Trống Đồng không phải thờ bản thân cái trống đồng .
    Thần núi được thờ này là nhân vật lịch sử hay văn hóa nào mà lại gọi là thần Trống Đồng ; suy nghĩ đơn giản …đền trống Đồng xây dựng trên núi Khả lao thì thần núi Trống đồng chính là vị thần tên là Khả Lao . Tại sao đền thờ thàn Khả Lao lại có tên là đền Trống Đồng ? , chắc chắn phải có sự liên quan hết sức mật thiết giữa thàn và Trống . sự gắn liền người và vật như thế chỉ có thể thần Khả Lao chính là vị thần đã tạo ra trống Đồng .
    Thần Khả Lao là ai liên quan gì với trống đồng và tại sao đền thờ lại là nơi hội thề trung hiếu thanh sạch của vua quan nhà Lí và nhà Trần Việt nam ? .
    Lần tìm anh mối trong truyền thuyết Việt :
    An Dương Vương xây thành Cổ Loa mấy lần không được. Thành xây xong thì chỉ một thời gian ngắn là bị đổ. Sau nhiều lần xây An Dương Vương quyết định lập đàn tế lễ bên bờ sông. Một vị thần hiện ra cho biết sứ giả Thanh Giang sẽ đến giúp. Một thời gian sau một con rùa nổi lên xưng là sứ Thanh Giang. Rùa giúp vua trị yêu quái Bạch Kê Tinh( Gà trắng tu luyện nghìn năm thành tinh). Sau đó, thành chỉ xây nửa tháng là xong.
    Sứ Thanh Giang ở với An Dương Vương 3 năm. Khi đi còn tháo móng trao cho vua và dặn “Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì không lo gì nữa”.
    (phần trích tư liệu trên internet)
    Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt làm lẫy tạo ra nỏ thần gọi là ‘Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ’ , đa số tư liệu đều chép như vậy riêng TS Lại Văn Tới (Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành) chép thần nỏ được gọi là “Kim quang linh trảo thần nô”̃ hoặc là “Kim quang thần nỗ” với ý nghĩa :
    Kim quang (ánh sáng của kim loại ở đây là Đồng) linh trảo (cái móng/lẫy linh thiêng) và thần nỗ (nỏ thần), .
    Phần viết về văn minh Hùng Việt cùng trên web-blog này đã gỉải mã truyền thuyết thần Kim quy chính xác là Kinh Quy :
    Thần Kim quy là hình ảnh của đồ hình Bát quái :

Quẻ Càn và Khôn là đầu và đuôi rùa , các quẻ Đoài Tốn Chấn Cấn là 4 chân rùa .
Việc Rùa thần tháo vuốt tặng An Dương Vương để chế tạo khí cụ mang Ý nghĩa thực sự :
Vuốt hay móng là nơi con Rùa bấu vào đất , dùng vuốt chế ‘nổ’ thần ý thực sự là : thần chỉ dạy con người nghiên cứu tính chất và sự tương tác của các quẻ Dịch trừu tượng rồi đem ứng dụng vào thế giới vật chất hữu hình chế tạo ra khí cụ phục vụ con người .

Lâu nay mọi người đều cho rằng khí cụ mà tướng Cao Lỗ dùng vuốt rùa thần tặng chế ra là nỏ Liên châu 1 lần bắn ra ngàn mũi tên …do hiểu từ ‘nô’̃ trong tên gọi Kim quang linh trảo thần nỗ lả cái ‘nỏ’ (Nam bộ gọi là ‘ná’)., tên gọi Linh quang Kim trảo thần nỗ trong tư liệu thực sự là chuỗi từ rối rắm thậm chí không thể hiểu nghĩa …dĩ nhiên chẳng chỉ ra điều gì cụ thể …; , ánh sáng linh thiêng , cái móng kim loại , nỏ thần …3 đoạn chẳng thể nào ghép lại với nhau thành 1 câu văn hoàn chỉnh nói lên hay chỉ ra cái gì đ̣iều gì rõ ràng . . sự sáng linh thiêng thì liên quan gì đến nỏ thần ?, cái vuốt kim loại …chắc rùa Vàng là robot ?và cũng chẳng dính gì đến nỏ thần .
Khi sắp xếp lại thành : kim quang linh trảo thần nỗ thì thấy được ý nghĩa :
Nỗ không phải là 1 danh từ chỉ cái nỏ hay cái ná đề hiểu thần nỗ là cái nỏ thần theo tiếng Việt mà ‘nỗ’̃̉ là từ kí âm động từ ‘nổ’ tiếng Việt ̉ chỉ sự phát ra âm thanh đột ngột và cực lớn , ở đây động từ Nổ được dùng như 1 danh từ tên goị vật hay khí cụ gây ra tiếng nổ tức phát ra âm thanh đột ngột và cực lớn , việc chuyển nghĩa như thế cũng chẳng lạ khi hiện nay các loại lựu đạn hay mìn bẫy thô sơ tự chế cũng gọi chung là trái ‘nô’̉ , tương tự tiền Việt xưa đúc bằng đồng , ‘đồng’ từ 1 nguyên liệu đã biến thành ‘Đồng’cũng có khi gọi là ‘đồng bạc’ đơn vị tiền tệ . vào thời xa xưa ngoài tiếng Sấm và tiếng trống đồng thì không có khí cụ nhân tạo nào khác có thể phát ra tiếng ‘nổ’ . xét tính chất thì cái Nổ trong truyền thuyết chỉ có thể cái trống đồng , trống thần cũng là nổ thần . ý nghĩa này kết hợp với ‘Linh trảo’ cái vuốt rùa thần linh thiêng và ‘kim quang’ vẻ sáng của kim lọai cho phép liên tưởng đến trống đồng với tên gọi đầy đủ : “Kim quang linh trảo thần nô” trống thần bằng kim lọại sáng loáng làm từ vuốt của rùa thiêng ,
Cụ thể cái móng rùa tặng cho An dương vương là 2 quẻ Chấn và Khôn mà tướng quân Cao lỗ đem Chấn chồng lên trên Khôn thành quẻ Lôi Địa Dự với tượng từ : Lôi xuất địa phấn dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo nghĩa là Sấm vang trên mặt đất bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng kính dâng thượng đế cùng với anh linh tiên tổ.


2 quẻ Chấn và Khôn ,Cái vuốt thần Kim quy .

Truyền thuyết nói nỗ thần có thể bắn ra cả ngàn thậm chí vạn mũi tên 1 lúc trong thực tế là việc không thể có , đây chỉ là sự diễn tả uy lực của tiếng Trống đồng , âm thanh phát ra như ngàn vạn mũi tên bắn về phía quân thù .

Trống đồng còn gọi là trống sấm khi đánh để úp xuống đất nên lời tượng bảo: lôi xuất địa phấn,
Tác nhạc chỉ ra trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế,
Có thông tin :
“Đồng Cổ miếu bi ký” 銅鼓廟碑記 (Bia miếu Đồng Cổ) viết: “Trong thung lũng núi có miếu cổ, thờ thần núi” (中有古廟奉事山神-Trung hữu cổ miếu, phụng sự sơn thần). Bia này còn cho biết “Năm Canh Thân (1800) bỗng ở phía sông Nam Ngạn được một chiếc trống đồng (…) quan đặc sai Đốc trấn Thanh Hoa bèn đem trống đồng mới được, tặng lại miếu thần để xuân thu tế tự,  giúp thêm NHẠC KHÍ cho miếu thần”.
Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn đang lúng túng đặt câu hỏi:? trống đồng dùng để làm gì hay công dụng của nó ra sao thì Kinh Dịch lời quẻ và lời tượng quẻ dự đã chỉ dáy : Dự “Lợi kiến hần, lợi hành sư”.

  1. Lợi kiến hầu : Trống đồng dùng như một lệnh bài sắc phong tước vị….
    hiếm hoi lắm trong tư liệu Trung Hoa cổ sót lại đoạn …“vua Châu ban cho Tần vương 1 cái trống bằng kim loại”.
  2. Lợi hành sư Trống đồng dùng làm hiệu lệnh thúc quân trong chiến trận .
  3. Dùng trong âm nhạc ở các buổi tế lễ long trọng.
    Thông tin :
    …Đến khi lâm trận, cứ nghe trong không trung mơ hồ âm thanh của trống đồng và đao kiếm. giúp khẳng định trống đồng là 1 loại chiến khí ….
    Lợi hành sư Trống đồng dùng làm hiệu lệnh thúc quân còn lưu dấu ở 1 số địa danh ở thành Cổ Loa nơi mà lâu nay vẫn cho là nơi tướng Cao lỗ luyện đội quân cung – nỏ , các địa danh Cường Nỗ, Uy Nỗ, Kính Nỗ..v.v..xét ra phù hợp với âm vang của trống Đồ̀ng điều quân hơn là việc bắn nỏ – ná .

Chỉ với những khám phá trên đủ khẳng định dịch học không phải là của Hán tộc, một dân tộc sống ở lưu vực Hoàng Hà xưa chẳng hề biết trống đồng là cái gì .
Tên gọi cặp quẻ Khiêm và Dự là gọi trong phạm trù triết học còn trong dân gian là hỉnh ảnh cảnh dã gạo như khắc trên trống đồng cũng như trong đời thực .’Khiêm và Dự’ của triết gia trong dân gian là ‘Khom và Dã; ; thực thế không thể đứng thẳng lưng mà dã chày xuống cối được .
Nổ thần tức trống thần – trống sấm dân gian còn gọi là cối đồng , ở nhiều nơi người ta không nói… đánh trống đồng mà là dã cối đồng .
Ngoài 3 công dụng kê trên trống đồng còn dùng cầu mưa , suy nghĩ đơn sơ …hễ có sấm là sau đó có mưa , người ta cho là sấm gọi mưa đến nên khi đến mùa rồi không có mưa thì người ta dùng tiếng trống đồng hay trống Sấm tức ‘sấm nhân tạo’ để gọi mưa về cho kịp vụ mùa .
Trong tiếng Việt ‘Nổ thần’ hay ‘Trống thần’ chỉ bản thân cái trống với uy lực như thần thánh còn ‘thần Nô’̉ hay ‘thần Trống’ chỉ ‘vị thần’ hoặc đã chế tạo ra trống hoặc xử dụng trống 1 cách thần diệu , tóm lại Nổ thần chỉ vật còn thần Nổ chỉ ‘siêu nhân’ 2 nghĩa hoàn toàn khác nhau .
Đền đồng cổ là nơi thờ ‘Thần trống Đồng’ là người đã tạo ra trống Đồng không phải thờ bản thân cái trống đồng ,
Nhưng thần tức người đã chế tạo ra trống đồng là ai ?.
Chiếu truyền thuyết Việt đã dẫn trên thì thần trống Đồng chính là tướng quân Cao Lỗ người đã dùng vuốt rùa chế ra Nổ thần bằng kim loại gọi là Kim quang linh trảo thần Nỗ .
Lỗ là tên 1 nước thời Xuân thu chiến quốc , cao là cao cả từ Việt ngữ chỉ người lãnh đạo , Cao Lỗ không phải họ tên mà dùng chỉ người lãnh đạo nước Lỗ .
Ngọn núi nơi có đền thờ thần Đồng cổ ở Đan nê Thanh hóa tên là núi Khả Lao , cụm từ ‘ thần núi Khả Lao’ chính xác phải hiểu là vị thần núi tương tự thần sông thần biển tên là Khả Lao không phải qủa núi tên là Khả Lao . Khả là biến âm của ‘cả’, Lão cũng chỉ là từ biến đổi của Lỗ , Cổ Loa – Cao Lỗ và Khả Lão chỉ là 1 người như thế vị thần được thờ ở ‘Đồng cổ từ’ chính là tướng quân Cao Lỗ .Có sự trùng hợp khá lạ kì vì Nỗ cũng phát âm là Lỗ , Cao Lỗ cũng có thể hiểu là chủ của cái ‘Nổ’ tức người đã tạo ra trống Đồng .
Đối chiếu hành trạng của Tướng quân Cao Lỗ trong sử Việt với hành trạng của ông Châu công Cơ Đán trong sử Thiên hạ thấy hầu như là bản chép lẫn của nhau . 2 ông cùng là cột trụ chống đỡ triều đại , ông Châu công Đán chỉ huy xây đông đô nhà Châu ở Lạc ấp còn tướng Cao Lỗ là kiến trúc sư trưởng xây thành Cổ Loa , Cổ Loa cũng chỉ là biến âm của Cao lỗ , gọi là thành Cổ Loa vì thành ấy do tướng Cao Lỗ xây nên .Cả 2 ông cùng 1 lòng tận trung với nước với vua nhưng cà 2 cùng bị hàm oan do kẻ xấu vu cáo hãm hại khiến vua xa rời phải ngậm ngùi lặng lẽ rời khỏi triều đình.
Liệu có phải là trùng hợp ngẫu nhiên khi núi Khả Lao nằm trên đất Đan nê , Đan phải chăng là Đán ?.
Khi Hồ qúy Li dời đô về Thanh hóa thì nơi được chọn tổ chức hội thề Trung hiếu hàng năm là ‘Đốn’ sơn . Phải chăng Đốn cũng là Đán ?
Sự trùng đúng rõ ràng hơn cả là danh hiệu đầy đủ của tướng quân Cao Lỗ : ‘Đại than đô Lỗ thạch ̣ thần’ . Thạch Thần trong ngôn ngữ dựa trên Dịch học là thần của phương Tây không phải là thần Đá hay thần bằng đá , có thể xem Thạch thần là vị thần bảo hộ nhà Châu , Châu và Chiêu chiều đều chỉ phía Tây mặt trời lặn , Đô kí âm của ‘đầu’ chỉ người cầm đầu đồng nghĩa với ‘cao – cả ’, Đô Lỗ cũng là Cao Lỗ .
Điểm nhấn là chìa khoá của luận điểm là 2 từ Đại Than , theo phép phiên thiết ‘đại than thiết Đán’ chính là tên tộc của ông Châu công – Cơ Đán .
Duyệt qua hành trạng của tướng quân Cao Lỗ cũng là thần trống Đồng Khả Lao và ông Châu công Cơ Đán đại công thần nhà Châu thì ta hiểu ra tại sao hội thề Trung Hiếu lại tổ chức ở đền thờ thần trống đồng tức thờ tướng quân Cao Lỗ cũng là Châu công – Cơ Đán .

Kết luận : Đồng cổ từ – đền trống Đồng là nơi thờ Thần trống đồng hay rõ hơn là vị thần đã tạo ra trống Đồng , vị thần ấy là tướng Cao Lỗ trong truyền thuyết Việt Nam cũng là ông Châu công – Cơ Đán đại công thần nhà Châu trong cổ sử Thiên hạ .
Không phải do sự báo mộng thần bí của thần Trống Đồng mà chính lòng tận trung và công lao của tướng Cao Lỗ cũng là Châu công Cơ Đán đối với nước với dân với triều đại là tấm gương muôn đời cho mọi người soi nên các quân chủ nhà Lí – Trần Việt đã chọn ‘Đồng cổ từ’ làm nơi hội thề Trung hiếu cho tất cả vương công đại thần hàng năm .