Xét trường hợp điển hình của quan
hệ Đại Việt và Tống quốc :
Vua Tống đã phong tước – ban phẩm
hàm và bổ nhiệm Lí công Uẩn lần lượt vào các chức vụ :
- 1010: Phong Lý Thái Tổ chức Kiểm hiệu thái phó, Tỉnh
hải tiết độ sứ ,quan sát sứ, xử trí sứ, An Nam đô hộ, Ngư sử đại phu Thượng trụ
quốc giao chỉ quận vương.
Sau thêm Đồng bình chương sự.
- 1012: Phong thêm: Khai phủ nghị đồng tam ti.
- 1014: Phong thêm Bảo Tiết Thủ Chính công thần.
- 1018: Phong thêm: Kiểm hiệu thái uý.
- 1022: Phong thêm Kiểm hiệu Thái sư.
- 1028: Phong thêm Thị Trung Nam Việt vương.
(Trích bài
của ThS Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Khoa Việt Nam học, ĐHSPHà Nội
Đăng trên
internet).
Dựa vào quan chế nhà Tống Phân tích
đống lộn sộn này ...
Để nắm rõ
phải xếp các chức tước đã phong này vào vào 3 lãnh vực khác nhau :
*Tước hiệu :
Năm 1010 phong Giao chỉ quận vương
Năm 1028 phong Nam Việt vương.
Về địa lí hành chánh xét theo dòng lịch sử
thì Giao chỉ là vùng bắc và bắc trung Việt còn Nam Việt chỉ lãnh thổ nước Nam Việt của Triệu
Đà xưa tức miền đất Giao chỉ – Quảng Tây – Quảng Đông .
Trước vua Tống phong Lí công Uẩn là Giao chỉ
quận vương sau phong là Nam Việt vương thì đúng là nâng cấp nhưng là
nâng từ quận vương lên hàng vương trong phẩm trật qúy tộc , quận vương
là 1 tước qúy tộc thấp hơn tước vương , Giao chỉ quận vương là 1 tước
hiệu không phải là lúc này đang có 1 quận tên Giao chỉ và Lí công
Uẩn là vua quận ấy như thường hiểu sai trước đây , Lí công Uẩn là
người Giao chỉ nên vua Tống ban tước hiệu qúy tộc là Giao chỉ [quận
vương] , Tương tự Giao chỉ nằm trong Nam Việt nên sử liệu của Tàu chép
...sau ông được nâng lên hàng vương
tước hiệu là Nam Việt vương cũng không có nghĩa là vua vùng Nam
Việt gồm Giao châu – Quảng Tây – Quảng Đông .
*Chức quan :
Kiểm hiệu Thái phó , kiểm hiệu thái sư là quan
cấp cực cao hàng nhất phẩm nhưng là
hư hàm không có quyền hành gì và thường mang những chức danh vô
thưởng vô phạt như trợ lí hay cố vấn của vua .v.v.
Quan sát sứ
xử trí sứ ; Sứ là chức quan khá cao thường ở hàng tam
phẩm là quan ngạch trung ương được
cử về địa phương thực thi 1 nhiệm vụ nhất định .
Ngự sử đại phu là quan của ngự sử đài hàng
tam phẩm
Nghị đồng tam ti là quan của Tam ti hàm tam phẩm
Đồng bình chương sự là chức quan rất cao chỉ
đứng sau tể tướng trong Tể chấp tức chính phủ ngày nay , phẩm hàm
vào hàng nhị phẩm .
*Phần
quan trọng chỉ rõ vị trí thực của nhân vật trong guồng máy cai trị
là chức vụ :
Chức vụ thực sự nắm quyền ở 1 vùng của Lí
công Uẩn là :Tĩnh hải quân tiết độ sứ và An nam đô hộ , caí sai xưa
nay là đồng nhất Giao chỉ và An nam
.
Tiết độ sứ là quan được vua ban cờ tiết toàn
quyền cả quân và dân sự ở 1 quân (đơn vị hành chánh) , Tĩnh hải quân
lập thời Cao Biền nhà Đường trên
đất Phong châu và Giao chỉ , trước đó nhà Tùy gọi là Giao châu , nếu
tư liệu trích dẫn đúng sự thực điều này chỉ ra : dưới mắt vua quan
nhà Tống Giao chỉ - phong châu là vùng nội thuộc y như thời Tùy Đường
.
Thời Đường phía Nam nay Giao chỉ là đất của
các lãnh chúa tộc Cơ và tộc Mi quy phục nhà Đường được hưởng quy
chế tự trị , cơ quan của chính quyền trung ương xử lí công việc trên
phần đất tự trị này là An nam Đô hộ phủ do quan An Nam đô hộ đứng
đầu . An nam đô hộ phủ đóng trên đất Giao chỉ nhưng lo việc ở phía Nam
ngoài Giao chỉ , do chỉ là 1 cơ quan nên thời Đường cũng có lúc dời
về đóng ở Quảng Tây ngày nay .
Lầm lẫn tai
hại xưa nay coi An Nam chính là tên gọi khác của
Giao chỉ . Thử hỏi Nếu An nam và Giao chỉ là một thì đã thuộc chức
trách quản trị của Tĩnh hải quân tiết độ sứ rồi còn đặt thêm quan
An nam đô hộ làm cái gì ?.
Nhà Tống phong Lí công Uẩn làm Giao chỉ quận
vương , Tĩnh hải quân tiết độ sứ kiêm An nam đô hộ tức đứng đầu An nam
đô hộ phủ ; Giao chỉ Quận vương là tước hiệu còn lại muốn rõ nghĩa
phải nhấn mạnh chữ ‘kiêm’; Tiết độ
sứ và quan đô hộ là 2 chức trách hoàn toàn khác nhau do cùng 1 người
kiêm trách , xét về mặt địa lí
hành chánh thì rõ ràng Tĩnh hải quân và An nam là 2 vùng đất khác
nhau thuộc về 2 quy chế quản lí nội ngoại thuộc khác nhau không thể
lẫn lộn được . Tiết độ sứ là quan rất to do triều đình trung ương bổ
nhiệm để cai quản 1quân là đơn vị hành chánh nội thuộc còn quan đô hộ lo việc bảo hộ vùng ‘ràng buộc lỏng lẻo’ của các lãnh
chúa địa phương quy phục triều đình tức vùng tự trị .
Sách sử chép sự việc không thể hiểu là :
- 1138: nhà Tống Phong vua Lý Anh Tông làm Giao chỉ
quận vương.
- Năm Giáp Thân (1164), vua Tống sai sứ sang đổi tên
nước ta từ Giao Chỉ quận thành An Nam quốc. Vua Anh Tông được phong An Nam quốc
vương.
Thời Tống liệu có quận Giao chỉ ở
Bắc và Bắc Trung Việt ngày nay hay không ?, như trên đã nói Giao chỉ
quận vương là 1 tước hiệu không phải 1tước vị , xét thời nước Đại
Việt - đại Hưng đô ở thành Phiên Ngu về mặt địa lí hành chánh đã
được tổ chức lại trên khuôn khổ đất đai Tĩnh hải và Thanh hải quân thời
Đường cũ ...Giao chỉ chỉ còn là 1 huyện ở miền đồng bằng sông Hồng
làm gì có Giao chỉ quận nào để nhà Tống đổi thành An nam quốc ?.
Cứ theo sử liệu dẫn trên thì Thời
nhà Đinh nhà Lí liệu có nước Đại cồ Việt – Đại Việt hay không ? ,vì
Giao chỉ lúc này là Tĩnh hải quân
tức đơn vị hành chánh nội thuộc nước Tống .
Nhưng theo như Bài Chiếu thảo phạt Ðại
(cồ) Việt của Triệu Quang Nghĩa vua thứ nhì của Tống quốc năm 980 .
Dịch
nghĩa :
Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang dội khắp nơi .
Cho tới mãi Gần đây, đất Diên Chỉ chưa nhập vào bản đồ (nước Tống ?), tự đứng một phương, gần Ngũ Lĩnh.
Cuối đời Ðường loạn lạc, đất đai bị chia xẻ, chúng tiếm xưng làm một nước (bang) , tách xa phong giáo, khiến phong hóa như của kẻ mù, đứa điếc
Từ khi bình định Phiên Ngung, ban cho lịch sách mà tuân hành, tuy nhận làm phiên thuộc, mà vẫn lo việc binh bị, có ý tự cường .
Phép thờ nước lớn, lẽ nào như thế?
Ðể cứu dân, chẳng đặng đừng ta phải đưa quân chinh phạt để thay đổi xứ mọi rợ; nay sai bọn Tôn Toàn Hưng qua đánh .
(Trích từ bài viết đăng trên mạng ).
Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang dội khắp nơi .
Cho tới mãi Gần đây, đất Diên Chỉ chưa nhập vào bản đồ (nước Tống ?), tự đứng một phương, gần Ngũ Lĩnh.
Cuối đời Ðường loạn lạc, đất đai bị chia xẻ, chúng tiếm xưng làm một nước (bang) , tách xa phong giáo, khiến phong hóa như của kẻ mù, đứa điếc
Từ khi bình định Phiên Ngung, ban cho lịch sách mà tuân hành, tuy nhận làm phiên thuộc, mà vẫn lo việc binh bị, có ý tự cường .
Phép thờ nước lớn, lẽ nào như thế?
Ðể cứu dân, chẳng đặng đừng ta phải đưa quân chinh phạt để thay đổi xứ mọi rợ; nay sai bọn Tôn Toàn Hưng qua đánh .
(Trích từ bài viết đăng trên mạng ).
Lướt
qua vài hàng lịch sử Đại cồ Việt – Đại Việt :
Năm
971 quân nhà Tống đánh chiếm Phiên ngung , Hậu chủ của Nam hán xin
hàng và nhận chức quan nhị phẩm của Tống quốc , Nước Nam Hán diệt
vong .
Vài dòng Việt sử :
Năm 931 tức chỉ 1 năm sau khi An nam thuộc về Nam Hán Dương Đình Nghệ nổi dậy quét sạch quan binh nhà Nam Hán ra khỏi bờ cõi .
Năm 938 Ngô Quyền con rể của Dương Đình Nghệ đánh quân Nam Hán tan tác trên sông Bạch đằng .
Năm 939 Ngô quyền còn gọi là Ngô vương Quyền lên ngôi hoàng đế nhưng không thấy Việt sử ghi quốc hiệu và niên hiệu .
Năm 968 nhà Đinh thay nhà Ngô quốc hiệu là Đại cồ Việt.
Năm 980 Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế , nhà tiền Lê thay nhà Đinh , không thấy sử nói đến việc thay đổi quốc hiệu .
Năm 1010 Lý thái tổ lên ngôi ở Hoa lư sau dời đô về thành Thăng long trong khoảng năm 1054-1072 vua Lý thánh Tông cải quốc hiệu là Đại Việt , nhà Lý tồn tại tới năm 1225 thì nhà Trần thay thế bằng việc vợ họ Lý truyền ngôi vua cho chồng họ Trần …chưa từng có trong lịch sử nhân loại .
Vài dòng Việt sử :
Năm 931 tức chỉ 1 năm sau khi An nam thuộc về Nam Hán Dương Đình Nghệ nổi dậy quét sạch quan binh nhà Nam Hán ra khỏi bờ cõi .
Năm 938 Ngô Quyền con rể của Dương Đình Nghệ đánh quân Nam Hán tan tác trên sông Bạch đằng .
Năm 939 Ngô quyền còn gọi là Ngô vương Quyền lên ngôi hoàng đế nhưng không thấy Việt sử ghi quốc hiệu và niên hiệu .
Năm 968 nhà Đinh thay nhà Ngô quốc hiệu là Đại cồ Việt.
Năm 980 Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế , nhà tiền Lê thay nhà Đinh , không thấy sử nói đến việc thay đổi quốc hiệu .
Năm 1010 Lý thái tổ lên ngôi ở Hoa lư sau dời đô về thành Thăng long trong khoảng năm 1054-1072 vua Lý thánh Tông cải quốc hiệu là Đại Việt , nhà Lý tồn tại tới năm 1225 thì nhà Trần thay thế bằng việc vợ họ Lý truyền ngôi vua cho chồng họ Trần …chưa từng có trong lịch sử nhân loại .
Như
trong bài viết trước đã nhận định :
Đất Diên - Chỉ
gần Ngũ lính
tức Nam Hồ nam thì chỉ có thể là đất Chu Diên và Giao chỉ .
Cuối đời Ðường
loạn lạc, đất đai bị chia xẻ, chúng tiếm xưng làm một nước... chỉ việc
anh em Lưu Ẩn – Lưu Nham (thực ra là họ Lê) lập nước Đại Việt đô ở
thành Phiên Ngung – Phiên Ngu .
Từ khi bình định
Phiên Ngung, ban cho lịch sách mà tuân hành, tuy nhận làm phiên thuộc mà vẫn lo
việc binh bị, có ý tự cường ;... ý rất rõ ràng ....sau khi tướng
Phan Mĩ nhà Tống đánh chiếm Phiên Ngu bắt vua Lưu Xưởng về an trí ở
kinh đô Tống thì Đại Việt – Đại Hưng vẫn là 1 nước vẹn toàn đủ cả
Chu Diên và Giao Chỉ , triều đình
mới lập năm 968 định đô ở phía Tây trên đất Giao chỉ chính thức
xưng đế năm 970 sau khi Phiên Ngu thất thủ coi như sự tiếp nối liên tục
về chủ quyền quốc gia , cứ theo bản văn thì Đại Việt – Đại Hưng không hề bị xóa sổ
ngược lại vẫn còn đủ : vua – triều đình và quân đội riêng chỉ chấp
nhận làm 1 phiên quốc của Tống
triều mà thôi . Ngoài bài chiếu trên sự kiện còn được chứng thực
bởi chính tước hiệu Nam Việt vương mà nhà Tống phong cho Đinh Liễn (Tư
liệu trích dẫn trên lầm là phong cho vua cha Đinh bộ Lĩnh) , thực ra
đã có sự cố ý lập lờ ở đây ; chính xác phải gọi Đinh Liễn là Nam
Việt quốc vương mới đúng , có lẽ
thiên triều thấy chữ ‘đại’ trong đại Việt là ‘phạm thượng’ nên
đổi gọi là nước Nam Việt ...(Nam Việt truyền thống có từ thời Triệu
Đà) , Một khi đã là 1 nước dù có là
phiên quốc đi nữa thì cũng phải có vua ; phải chăng đám ‘cạo sử’ đã thay đổi
lịch sử bằng cách xóa đi chữ ‘quốc’ trong tước vị Nam Việt quốc
vương ?. Nam Việt cũng chính là quốc hiệu mà nhà Nguyễn yêu cầu Mãn
Thanh công nhận nhưng bị tử chối và đổi thành Việt Nam vì e người
Việt vin vào đấy xác lập chủ quyền lịch sử trên đất đai Lưỡng Quảng
..., Trước đó quốc danh Nam Việt chính là cơ sở để hoàng đế Nguyễn
Huệ đấu tranh thu hồi lãnh thổ đã mất , dân Việt đã chuẩn bị nếu
văn chiến không song thì võ chiến ...sống mái 1 phen nhưng
than ôi ...cơ trời vận nước ...
Sử
Việt rắc rối từ chỗ này ...
Chiếu
của nhà Tống lập khoảng năm 980 nói đến việc quân Tống đánh Giao chỉ
thời vua Lê đại Hành ...nhưng vua Lê Hoàn nào có dính dáng gì đến
nước Đại Việt – Đại Hưng đô ở Phiên Ngung của anh em Lưu Ẩn – Lưu Nham theo
nội dung của bài chiếu ?, cứ theo tư liệu lịch sử của Tàu và Việt
hiện nay thì chỉ có thể :
Đám quân sư quạt mo soạn chiếu cho Triệu
quang Nghĩa là đám ...ngồi trên mây nói chuyện tầm phào không ăn nhập
gì với thực tế lịch sử diễn ra dưới mặt đất . Hoặc ...là giới sử học Việt mắc sai
lầm ...lẫn lộn râu ông này cắm vào cằm bà kia ; sự việc chỉ có lí
nếu nhìn nhận theo Sử thuyết Hùng Việt : nước Việt không có
triều Lê Hoàn – Lê đại Hành năm 980
đến 1009 mà chỉ có Lê Đại Hành - Đức Chính con của Công Uẩn - Đinh
bộ Lĩnh ở những năm 980 mà thôi .
Cuộc
chiến kháng Tống của quân dân Đại Việt kéo dài triền miên chia thành
nhiều thời kì suốt từ năm 980 cho đến tận năm 1076 thì Đại Việt chịu
mất hẳn đất Lưỡng Quảng chính sử gọi là đất Quảng nguyên để đổi
lấy hoà bình , Quảng nguyên nghĩa là đất Quảng chỉ Quảng Đông -
Quảng Tây ngày nay ..., Sử Việt đã sai cho Quảng nguyên là 1 phần Cao
Bằng Lạng sơn , nói thực ...vua quan ‘nhà giời’ tốn bao xương máu trong
gần trăm năm đâu phải để dành lấy
miếng bánh cỏn con như thế ...rồi cho huề ?.
An nam đô hộ phủ là cơ quan của
trung ương đóng trên đất Giao chỉ nhưng lo việc bảo hộ các châu KIMI ở
nam Giao chỉ .Về mặt lí lẽ thì nhà Tống chỉ có thể đổi chức quan
‘An Nam đô hộ’ thành ‘An Nam quốc vương’ , ý nghĩa lịch sử của hành động là ... từ nay công nhận An nam tức vùng đất ở
phía Nam Giao chỉ là 1 vương quốc không phải là đất của các lãnh
chúa KIMI chịu sự bảo hộ nữa .
Lịch sử không hề có tư liệu nào nói
...nhà Tống giải tán Tĩnh hải quân và thay chức Tĩnh hải quân tiết
độ sứ bằng An nam quốc vương . Đinh bộ lĩnh không phải họ và tên chỉ là cách gọi khác theo ‘kiểu’ Việt
của Tĩnh hải quân tiết độ sứ tức quan toàn quyền cai quản phía Tây
nước Đại Việt , không phải là Tĩnh hải quân tiết độ sứ của Tống
quốc ..., Đinh bộ của Đại Việt chỉ lập ra năm 968 là phương án mang
tính chiến lược trong việc đối phó
với ý đồ xâm lấn của nước Tống và qủa thực việc đã đến ; Phiên Ngu kinh đô phía Đông đã rơi vào
tay giặc Tống năm 970 .
Lịch sử thời này phải xem xét lại
hiểu cho chính xác là : nhà Tống công nhận Nam Việt quốc vương đồng
thời cũng là An Nam quốc vương tức
là vua của cả 2 nước.
Đất Giao chỉ chưa bao giờ là lãnh
thổ cuả nước An Nam . An nam chỉ là tên gọi đất miền Trung trở về Nam
được chứng thực qua 2 thời : thuộc Mãn thanh và thuộc Pháp .
Tư liệu thời Mãn thanh phân biệt rõ gọi đất
miền Trung và Nam Việt cùng với Lào và Campuchia ngày nay là nước Quảng Nam , Bắc bộ là nước Giao
chỉ đô ở Đông kinh .
Thời Pháp thuộc lãnh thổ nước An Nam của triều
đình Huế chỉ là miền Trung trở vào Nam
, Bắc kỳ gọi là Tonkin tức Đông kinh là 1 miền đất khác .
Sự phân chia này phản ánh đúng sự việc với
chiếu đổi tên nước của vua Minh Mạng năm1938 ... “Đức Triệu Tổ (Nguyễn Hoàng ) dựng nên cơ
nghiệp ở cõi Nam, Đức Thế Tổ (Gia Long) lấy được cả đất Việt Thường (tức bắc
bộ từ tay nhà Tây sơn ), nhân dân thêm đông, lãnh thổ thêm rộng, nay đổi
tên là Đaị Nam, kể từ năm thứ 20 (Minh Mạng), hoặc gọi là Đại Việt Nam cũng được”.
Bất kể vua Tàu có công nhận hay
không : Trong thực tế lịch sử Việt nam vẫn là sự hợp nhất 2 miền đất
của Nam Việt quốc vương và An Nam quốc vương ;
Theo sự nhìn nhận của nhà Nguyễn :
Việt Thường chính là Nam Việt (đất Đào – Đường , Đường là phía Nam cổ xưa nay ngược lại
) ; là đất Giao chỉ – Phong châu nước Đại Việt xưa tức Bắc và Bắc Trung bộ ngày nay còn An
nam - cõi Nam chính là miền An Chiêm của Thiên hạ nhà Trần sau là nước
Quảng Nam thời Nguyễn tức đất của các lãnh chúa tộc Cơ và tộc Mi phía
Nam Giao chỉ trước đây .
Việc từ năm 1164 trở về sau vua Tàu
chỉ công nhận vua Việt là An Nam
quốc vương lờ tịt đi tước Nam Việt
quốc vương là chuyện đểu cáng của
Tàu ám chỉ vua Việt chỉ là vua mọi (theo ý của họ) ...đồng thời ém
nhẹm chôn chặt việc nhà Tống đã xâm chiếm phần đất phía
Đông của nước Đại Việt – Đại Hưng trước
bàn dân thiên hạ .
Chính triều đình Nhà Tống đã lập ra
nước An – Nam trên giải đất miền
Trung Việt Nam ngày nay năm 1164 và phong Lí Anh tông làm An nam quốc
vương đầu tiên . Chiêm thành chỉ là tên gọi 1 thời của nước ‘An nam’
mà thực chất là sự liên kết các
châu KIMI phía Nam Giao chỉ thuộc An Nam đô hộ phủ trước đây . Rõ ràng
Từ mốc thời gian này mọi cuộc chiến xảy ra trên lãnh thổ 2 nước An
Nam và Đại Việt cùng 1 vì vua phải xem là chuyện nội bộ ít ra là
chuyện của nội bộ hoàng tộc không hề có chuyện ...chiếm đất diệt
quốc diệt chủng như những cái miệng độc ác phun ra chuẩn bị cho mưu
đồ đen tối của mình ... còn nếu
muốn nói thì phải nói ngược lại ...khi nước Quảng Nam của vua Gia
long người gốc Cầm châu (Nam Lào ngày nay) chiếm Giao chỉ lúc đó gọi
là Bắc hà từ tay nhà Tây sơn lập ra vương quốc của họ Nguyễn , Cầm
chính là Cam là Cham là Chim - Chiêm
vậy .
Vấn đề không thể nhận ra là vì ...dựa vào sử liệu Tàu trong 4
cái kho hàng gian hàng gỉa của Càn long ‘người ta’ đã khiến lịch sử Việt
nam rối tinh rối mù không còn biết đâu mà lần ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét