Trích Việt
Nam sử lược :
..."Năm
Kỹ Mão (678) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện
, và đặt An Nam đô hộ phủ.
Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.
Mười hai Châu đời nhà Đường là những châu này:
1. Giao Châu có 8 huyện (Hà Nội, Nam Định v. v.)
2. Lục Châu có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn) 3.
Phúc Lộc Châu có 3 huyện (Sơn Tây) 4.
Phong Châu có 3 huyện (Sơn Tây) 5.
Thang Châu có 3 huyện (?) 6. Trường Châu
có 4 huyện (?) 7. Chí Châu có 7 huyện (?) 8. Võ Nga Châu
có 7 huyện (?) 9. Võ An Châu có 2 huyện (?) 10.
Ái Châu có 6 huyện (Thanh Hóa) 11. Hoan
Châu có 4 huyện (Nghệ An)"...
Đoạn khác
:
..."Năm
giáp-thân (1164) vua nhà Tống đổi Giao-chỉ quận làm An-nam quốc, và phong cho
Anh-tông làm An-nam quốc-vương.
Nguyên
khi trước Tàu gọi ta là Giao-chỉ quận, rồi sau đổi là Giao châu, đến thời nhà
Đường đặt An-nam đô-hộ-phủ. Nhà Đinh lên đặt Đại-Cồ Việt, vua Lý
Thánh-tông đổi là Đại-Việt. nhưng Tàu vẫn phong cho vua ta là Giao-chỉ
quận-vương, đến bấy giờ mới đổi là An-nam quốc-vương. Nước ta thành tên
là nước An-nam khởi đầu từ đấy."...
Không phải
chỉ riêng sử gia Trần trọng Kim mà cả giới sử học nói chung đã sai
lầm khi viết sử dựa vào 4 cái kho hàng gian hàng giả (Tứ khố toàn
thư) của đại hãn Càn long triều Mãn Thanh .
Theo sử
hiện nay :
Nhà Tần
chia Lĩnh Nam thành 3 quận ...
Nam hải nay
là vùng Quảng Đông
Quế Lâm là
Quảng Tây
Tượng quận
là 1 phần đất Vân Nam - Quảng Tây cộng với bắc và bắc trung
Việt ngày nay .
Sử Hùng
Việt không chấp nhận và xác định các quận :
Nam hải là
Quảng Đông ngày nay
Quế Lâm là
Qúi châu và bắc Quảng Tây
Tượng quận
là Vân nam
Nam Quảng
Tây cộng với Bắc và bắc trung Việt ngày nay là quận Tam Xuyên thời
Tần . Sử Tàu đã thủ tiêu quận Tam xuyên ở Lĩnh Nam này di dời nó lên
phía Bắc quê hương giống Mông Mãn vì tư liệu lịch sử viết ...Tần lấy
đất nhà Châu đặt quận Tam xuyên , đồng thời họ nhét đại Giao
chỉ vào Tượng quận khiến đến tận ngày nay thiên hạ vẫn đốt đuốc
xác định ranh giới Tượng quận , cãi nhau mãi mà 1 cái quận nhà Tần
to đùng như thế vẫn chưa chắc chắn nằm ở đâu thật nực cười ...
Sang Thời
nhà Hiếu của Lí Bôn sử Tàu gọi là nhà Tây Hán của Lưu Bang sử nói
đến các quận :
Giao chỉ ở
bắc và bắc trung Việt .
Cửu chân
là vùng Thanh hoá Việt nam ngày nay
Nhật Nam
là đất phía Nam đèo ngang tức đất của Chiêm thành .
Sử Hùng
Việt chỉ ra thực sự :
Giao chỉ
quận là đất Bắc và bắc trung Việt ngày nay .
Cửu chân
là Qúi châu Trung quốc ngày nay
Nhật Nam
chính xác là Nhất ( số1) Nam tức chính Nam nay là đất Quảng Tây
.
Nhà Hiếu -
Tây hán đã gộp Giao chỉ Quảng Tây và Quảng Đông ngày nay lập ra Giao
chỉ bộ hay bộ Giao chỉ , sau nước Đông Hán đổi Giao chỉ bộ thành Giao
châu .
Xét như
thế thì quận Giao chỉ và bộ Giao chỉ hay Giao châu là những thực thể
khác nhau không phải là một , 12 châu nhà Đường kể trên là 12 châu của
bộ Giao chỉ tức bao gồm cả Lưỡng Quảng không chỉ riêng Giao chỉ .
Sai lầm
thứ 2 của sử gia :
...nhà
Đường đặt An Nam đô hộ phủ và Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy...
An Nam đô hộ
phủ là 1 cơ quan không phải là 1 miền địa lí hành chánh ,
nhà Đường
đã có lúc dời An Nam đô hộ phủ về Quảng Tây ...không lẽ nhà Đường dời
'nước ta' về Quảng Tây ? , thực chẳng ra nghĩa ngọn gì ,1 cơ quan làm
sao có thể biến thành 1 nước được ?.
... Nguyên
khi trước Tàu gọi ta là Giao-chỉ quận, rồi sau đổi là Giao châu, đến thời nhà
Đường đặt An-nam đô-hộ-phủ...
chỉ 1 dòng
sử mà sai chồng lên sai ...Giao châu không phải chỉ là Giao chỉ
và làm sao ̀Giao châu 1 vùng địa lí hành chánh bỗng nhiên
có thể hoá thành 1 cơ quan là An-nam đô-hộ-phủ ?.
...Nhà Đinh
lên đặt Đại-Cồ Việt, vua Lý Thánh-tông đổi là Đại-Việt. ..vua Đinh đổi 1 cơ quan là An-nam
đô-hộ-phủ thành 1 nước là Đại-Cồ Việt...y như kiểu hỏi 1 mét nặng
bao nhiêu kg ...không thể chấp nhận được về mặt lí luận .
sau cùng
là sai lầm mang tính quyết định :
...nhưng Tàu
vẫn phong cho vua ta là Giao-chỉ quận-vương, đến bấy giờ mới đổi là An-nam
quốc-vương. Nước ta thành tên là nước An-nam khởi đầu từ
đấy."...
Giao-chỉ
quận-vương là 1 tước hiệu , quận vương là tước qúi tộc nhỏ hơn tước
vương ; hoàn toàn không hàm nghĩa là vương 1 quận ví dụ như vua
Lê đại Hành từng được phong là 'Kinh triệu quận hầu' nhưng vua đâu có
dính dáng gì đến cái quận Kinh triệu ở bắc kinh thành Tây an . An Nam
quốc vương là 1 tước vị có nghĩa là vua của nước An nam nên không thể
nào có chuyện nước Tàu nâng cấp 'vua ta' từ Giao-chỉ quận-vương lên
thành An-nam quốc-vương được .
Nhà Tống
thường phong ban cho vua nhà Lí các chức tước:
Tước hiệu
qúi tộc nhà Tống : Giao chỉ quận vương sau nâng lên thành Nam Việt
vương .
Chức quan :
Tĩnh hải quân tiết độ sứ tức quan toàn quyền cai quản Tĩnh hải quân
.
Chức quan :
An Nam đô hộ đứng đầu An nam đô hộ phủ lo việc bảo hộ các châu KIMI
tức đất của các lãnh chúa tộc Cơ và tộc Mi ở phía Nam Giao chỉ ,
sử ngày nay gọi là các địa khu Chiêm thành .
..."Năm
giáp-thân (1164) vua nhà Tống đổi Giao-chỉ quận làm An-nam quốc, và phong cho
Anh-tông làm An-nam quốc-vương.
Từ mốc
thời gian này nước ta thành 1 nước độc lập ???
Đây là sai
lầm vô cùng lớn làm biến tính cả lịch sử Việt nam .
'Giao chỉ
quận' không thể đổi thành 'An nam quốc' được vì đấy là 2 miền lãnh
thổ hoàn toàn khác nhau ; Giao chỉ là đất dưới quyền quản trị của
Tĩnh hải quân tiết độ sứ , An nam là đất của các lãnh chúa liên kết
do quan đô hộ đứng đầu An nam đô hộ phủ trông coi .
Nước
Đại Việt - Đại Hưng có 2 triều đại , triều đại đông Đại Việt kinh đô
ở thành Phiên Ngu hay Phiên ngung và triều đại Tây Đại Việt trước đô ở
Hoa lư sau dời về thành Thăng long .
Nhà Tống
gọi Đại Việt - Đại Hưng là đất 'Diên - Chỉ' gần Ngũ lãnh tức Giao
chỉ (của 2 bà Trưng) và Chu Diên (của Thi Sách) hợp lại.
Năm 970 quân
Tống đánh chiếm Phiên Ngu , người Việt lập triều đình mới ở Hoa Lư
sau dời về thành Thăng long bên ngoài gỉa chấp nhận làm phiên quốc
của nhà Tống nhưng luôn chuẩn bị cho việc khôi phục chủ quyền , những
điều này đều chép rõ trong chiếu thảo phạt năm 980 của vua Tống .
Triều đình
Tống quốc coi Đại Việt là phiên quốc đương nhiên người đứng đầu phải
là 1 phiên vương nhưng tai quái họ không dùng từ Đại Việt mà đổi gọi
là Nam Việt và chỉ phong vua Đại Việt tước hiệu Nam Việt vương tức
qúi tộc của nhà Tống không hề công nhận tước vị 'Nam Việt quốc
vương' , thay vào đó họ nhập vùng An nam vào lãnh thổ Đại
Việt rồi Năm giáp-thân (1164) phong cho Lí Anh tông làm 'An Nam quốc
vương' không nói gì đến Đại Việt nữa dù thực tế vẫn mặc nhiên công
nhận Đại Việt là 1 phần đất cấu thành An nam quốc .
Có rạch
ròi như thế mới có thể hiểu được chỉ dụ của vua Minh Mạng nhà
Nguyễn ban ra khi đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam .
“Nước
ta tự đức Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế (Nguyễn Hoàng ; người viết chú dẫn) chinh
phục được cõi Nam, dựng nên vương nghiệp. Cùng các liệt thánh, ngày thêm mở
rộng khắp đất Việt Thường . Tên nước cũ Trung Nguyên gọi là Đại Việt, lịch thư
cũng lấy hai chữ ấy đứng đầu. Vốn chẳng phải ví như tập dụng chữ An Nam mà biệt
xưng là Đại Việt. Từ khi đức Hoàng Khảo Cao Hoàng đế (Gia Long) ta, có
nước An Nam
(
đất
Trung và Nam Việt )
mới đặt quốc hiệu là Đại Việt Nam quốc, lịch thư chỉ viết đơn hai
chữ Đại Việt, về lý thì không hại gì, xưa nay hành văn đã trải mấy niên kỷ,
nhưng không ai thấy chữ An Nam quốc, trong đời nhà Trần, nhà Lê các triều nhật
lịch cũng có hai chữ Đại Việt, nhận nhầm rồi mà sinh ngờ vực, việc quan hệ đến
quốc thể chẳng nhỏ, trẫm xét đời xưa như nhà Đường nhà Tống trở về trước, lấy
đất dấy lên vương nghiệp làm quốc hiệu, đến nhà Nguyên nhà Minh, lại hiềm việc
noi theo dấu cũ, nên lựa mỹ tự mà đặt quốc hiệu, đến nhà Đại Thanh nguyên trước
xưng Mãn Châu, sau lại đổi là Đại Thanh đều là nhân thời tùy nghi, lấy nghĩa dấy
việc.
Nay bản
triều có toàn cõi phương Nam, bờ cõi ngày mở rộng cho đến chân núi bờ biển cũng
đều thống thuộc, nguyên trước xưng là Việt Nam, nay xưng là Đại Nam, thì càng
rõ thêm danh nghĩa, mà chữ Việt cũng ở trong ấy vậy. Quốc hiệu nên xưng là Đại
Nam, còn hiệp kỷ lịch thì đổi lại hai chữ Đại Nam mà ban hành”.
Việt Thường là tên gọi thời cổ xưa của quốcgia lập trên đất
Giao chỉ , từ ‘thường’ trong Dịch
học là từ chỉ phía Nam - phương nước xưa (nay đã lộn ngược thành
phương Bắc ) như câu ca dao :
Tháng 5 ngày tết Đoan dương
Là ngày giỗ mẹ Việt Thường Văn Lang .
Vương triều
Nguyễn ...lấy đất dấy lên vương nghiệp làm quốc hiệu..., đặt tên nước
là Đại Nam tức xác nhận gốc An Nam của hoàng tộc .
Đoạn ...nay xưng là Đại Nam, thì càng rõ thêm danh nghĩa, mà chữ Việt cũng ở
trong ấy vậy... chỉ ra : nhà Tống đã gộp đất Giao chỉ -
Đại Việt vào nước An Nam tân lập nhưng cố tình lờ đi không đá động
gì đến chữ Việt cho đỡ mất mặt vì trên nguyên tắc họ vẫn coi đất
ấy là thuộc Thiên triều .
Rất rõ
ràng ,Giao chỉ xưa là đất đai Đại Việt , phía Nam Đại Việt là vùng
An Nam của các lãnh chúa KIMI . Từ 2 miền đất khác nhau năm
giáp-thân (1164) chính vua nhà Tống đã nhập An Nam vào với Giao-chỉ
và phong cho Lí Anh-tông làm An-nam quốc-vương , từ đây lịch sử làm gì
còn dân Chiêm Thành , có chăng là những tiểu quốc hưởng quyền tự trị
nằm trong 1 tổng thể lớn hơn là tổ quốc trước là Việt Nam - Đại Nam
, nay lại là Việt Nam , những người ngày nay tưởng là người Chăm
- người Hời của nước Chiêm thành thực ra là người Phù Nam họ Phạm
mất nước .
Từ thời
nhà Lê và sau là nhà Nguyễn chính người gốc An Nam đã trở thành
cộng đồng trung tâm viết nên lịch sử Việt Nam (như trong chỉ dụ
Minh Mạng trên) .
Những
cái đầu thâm hiểm và miệng lưỡi điêu ngoa đã làm lịch sử Việt và
Nam lộn tùng phèo hết thảy , khiến chẳng thể biết được ai trước đây
gốc Đại Việt ai gốc An Nam ,... mà biết để làm gì ? , 2 từ
Việt - Nam ngày nay đã là 'trọn vẹn' đầy đủ cả rồi .
Xem xét kĩ
thông tin trong dòng sử đã nêu thì ...làm gì có 1 nhà nước
Champa thống nhất và độc lập liên tục đấu tranh và sau cùng bị đại
Việt tiêu diệt như lịch sử hiện nay viết ?, từ thời Đường phía
Nam Giao châu chỉ có các châu KIMI tức vùng lãnh thổ của các lãnh
chúa tộc Cơ và tộc Mi liên kết với đế quốc Đường ; ngày nay giới
nghiên cứu gọi là các địa khu đặt dưới sự quản trị của 1 cơ quan
gọi là An Nam đô hộ phủ , sau chính nhà Tống đã đổi chức quan An Nam
đô hộ thành An Nam quốc vương tức công nhận An Nam là 1 quốc gia và
phong Lí Anh tông làm An Nam quốc vương đầu tiên , An nam quốc có lãnh
thổ là phía Nam Giao chỉ tức miền Trung và có thể cả Nam Lào và
miền Nam Việt nam ngày nay .
Đã đến lúc phải xem xét lại
toàn bộ lịch sử và lịch sử bang giao giữa các nước Đại Việt , Nam
Việt , Việt nam , Đại nam , An Nam và Lâm ấp , Hoàn vương , Chiêm
thành có thể cả Phù Nam , Chân Lạp và đặc biệt là Nam
Chiếu ...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét