Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

Ngũ hành Dịch học và uẩn khúc lịch sử

 


Bản đồ Địa lý  Việt theo Ngũ Hành
Đi sâu tìm hiểu thì nhận ra  nhiều tên gọi của 5 hành  ứng dụng
 được đặt dựa trên đặc điểm tự nhiên Địa lý  Việt nam thể hiện bằng Việt ngữ .
Bài này dùng Chuẩn mực 5 Sắc  để từ đó đối chiếu xác định phương vị các ứng dụng còn lại của các  Hành vì 5 sắc Dịch học vẫn giữ nguyên như ban đầu  không thay đổi theo thời gian .
Đã có  1 số điều về địa lý trước nay không nhận ra :
Đơn cử ;
*Màu Đỏ -Hướng  Bắc là hướng Xích đạo – Nóng bửc    , bản thân từ xích  là màu Đỏ rồi , Bắc là biến âm của bức – nóng tiếng Việt nên cũng gọi là Viêm thiên – hành Hoả .
*Màu xanh – Hướng Đông bên Mục là Hướng mặt Trời mọc , chính động từ Mọc Việt ngữ đã sinh ra  hành Mộc là gỗ – cây ,  bên Mục là bên mặt Trời mọc ,cũng  sinh ra tay Mặt của con người .
*Hướng Tây là hướng mặt trời lặn , người Việt gọi là  ban Chiều , từ Chiều biến ra bên Chiêu nơi mặt Trời lặn , tay Chiêu là tay trái ngược lại với tay mặt bên Mục .
*Màu Đen  ;Trong nền địa lý tự nhiên Đông phương  riêng phía Nam hay phương Nam  được đặt tên dựa trên hành động của con người :
 Khi ta để tay Mặt ở bên Mục , tay Chiêu hay Siêu tức tay trái ở bên Chiêu – chiều thì hướng mắt nhìn gọi là hướng Nom – nhìn , văn minh Đông phương gọi là Quan phương , trong 4 phương trời là Huyền thiên .
Ngoài ra phương Nước màu Đen do quẻ Cấn trấn nhậm , Cấn là tượng của núi núi cũng là Non , non > nam > NAM .Trong Thái ngữ nước là nậm cũng là Nam .
Trục Bắc – Nam  hiện thời đã lộn ngược so với địa lý tự nhiên Việt Nam nguyên thủy tức căn cứ trên tính chất vật lý không phải phán bừa tự đặt sao cũng được , Phương Nam Huyền thiên màu Đen , lạnh lẽo mờ tối đã bị lộn ngược thành Bắc , sở dĩ gọi là lộn ngược vì chứng lý bản thân từ Bắc là biến âm của bức tức nóng thế cho nên  hợp lý ra thì Bắc – bức phải nằm  về phía  Xích đạo .
Việc đảo lộn Bắc Nam không phải là chuyện nhỏ trái lại nó khiến rất nhiều thông tin trong tư liệu cổ xưa về lịch sử và địa lý của Việt nam và Trung Hoa trở nên không chính xác . thông tin mang trong bản thân danh xưng không thể nhìn nhận chính xác được có thể khiến  Lịch sử Thiên hạ  đổi khác hoàn toàn tùy theo ý đồ chính trị của sử gia  .
KInh Thư có chép … vua Nghiêu mệnh Hy thúc trạch Nam Giao , do Bắc Nam lộn ngược nên ai đó mặc sức lếu  láo  …Nam Giao là vùng đất Giao chỉ ở phía Nam  Trung hoa , gọi là cố sức bẻ cong lịch sử vì nếu đúng theo  chính sử Trung quốc thì mãi tới thời Ân sau vua Nghiêu đến hàng mấy ngàn năm người Trung quộc mới vượt qua Hoàng Hà xuống phía Nam thử hỏi  vua Nghiêu vua Thuấn đã làm gì biết  đến đất Giao chỉ ở phương Nam  ?.
Sử thuyết Hùng Việt cho danh xưng Nam Giao nói đến trong sách Thượng thư thực ra là Nam Giao chỉ , Giao chỉ là tên gịi của  Việt Nam ngày nay , danh xưng Giao chỉ là Biến đổi của chỗ Giữa ,  sau Giao chỉ bộ có lúc gọi  là Giao châu , Nam Giao  tức Nam Giao chỉ chính là đất Lưỡng Quảng   ,Giao là Giữa còn  từ Quảng nghĩa là mở rộng chỉ  việc  khởi từ đất Giữa mà mở rộng lãnh thổ sang vùng đất phía Nam Giao chỉ  là đất lưỡng Quảng ngày nay . hướng  Nam đã dùng trong kinh Thư là hướng nguyên thủy của nền văn minh Dịch học dựa trên nền tảng tính chất vật lý tự nhiên  ngược với tên gọi tùy tiện vô căn cứ như Bắc – Nam ngày nay .
Trước Nam Gao từ NAM đã gắ́n liền với người Việt từ nguyên thủy.
Trong dòng sử dân gian Quốc tổ Hùng Vũ vương của người Việt có đạo hiệu là ‘Vua cha ngọc hoàng thượng đế ‘ , người đã kiến lập triều đại đầu tiên của tổ tiên người Việt đô ở núi Ngàn Hống nay thuộc Thanh Nghệ Tĩnh , vua đã cha truyền ngôi cho con trưởng là đế Nghi lập nên triều đại thứ 2 định đô ở vùng Tam giang nay thuộc Bắc bộ gọi là NAM triều . Đế Nghi đạo hiệu là ‘NAM triều thánh tổ ngọc hoàng thượng để ‘ , dân gian còn gọi là ‘Nam bang triệu tổ ,triệu ở đây là biến âm của chiếu – chúa tức thủ lãnh ,ngày nay gọi là nguyên thủ quốc gia .
Từ NAM gắn chặt với người Việt từ đấy 1 cách hết sức tự nhiên và liên tục qua các thời đại..
Đời Tần nước chia thành 36 quận đất NAM Giao trước gọi là quận NAM Hải và Quế Lâm , thực ra Lâm cũng chỉ là từ biến đổi của Nam – Lam mà thôi .
Tần bị diệt vua Lí Bôn – Lưu Bang dựng Đại Hưng quốc ban đầu định đô ở Đại Hưng thành tức Trường An , đời sau con cháu chia đôi ;phần ở lại Trường an được sử gọi là triều Hiếu , phần NỮA được Lữ Gia phò tá đời về thành Phiên Ngung hay Phiên Ngu gọi là triều NAM việt sau cũng gọi là nước NAM Việt , Lí Bôn thành Nam Việt đế hay Nam Việt vũ đế ..
Thời hậu khởi nghĩa Khăn Vàng Lí Phật tử đã phục sinh Nam Việt sử gọi là Hậu Lí NAM đế .sử Trung quốc gọi là Lưu Bị vua nước Tây Thục .
Thời nhà Đường sử cũ viết vua Đường đổi Giao châu thành An Nam , sử thuyết Hùng Việt phản bác việc này không đúng vì Giao châu do phủ tổng quản Giao châu sau đổi thành phủ đô đốc Giao châu quản lí là đất NỘI thuộc còn An Nam do phủ đô hộ quản lí tức đất tự trị ngoại thuộc.không thể nào đổi được .
Sử thuyết Hùng Việt cho là Giao châu vẫn là Giao châu sau nhà Đường đổi thành Tĩnh Hải quân còn An Nam do phủ đô hộ An Nam quản lí là đất hợp nhất của 2 đô hộ phủ Phong châu ở phía Tây và Hoan châu phía Nam Giao chỉ mà thành , điều này được chứng minh bởi vị quan cai quẩn đất Giao chỉ .luôn gánh song song 2 chức trách : Tĩnh hải quân tiết độ sứ và An Nam đô hộ ‘
Đất An Nam thời trung đại là nơi khởi nghĩa trước là Mai Hắc đế sau là Phùng Hưng Bố cái đại vương trở nên đất gốc của nước Nam Chiếu . Sang đời vua họ Phùng thứ 2 , An Nam thành lộ Lâm An của Phùng An con Phùng Hưng .thực ra Lâm cũng chỉ là từ biến đổi của chữ NAM mà ra . Lâm an cũng chính là đất Lâm Hà hay Nam hà xưa .
Thời sử Trung quốc gọi là Hoa Nam thập quốc thì quốc hiệu nước ta là Đại Việt và Đại Hưng mãi tới vua Minh Mang nhà Nguyễn từ NAM mới phục sinh trong quốc hiệu Đại NAM và gắn chặt với dân tộc ta cho tới hôm nay .

Anh hùng Trần bình Trọng khi sa cơ thất thế bị giặc Mông Thát bắt và dụ hàng đã thẳng thừng trả lời ‘Ta thà làm qủy nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc ‘ câu nói ấy đã thể hiện khí phách người họ Hùng đã và  sẽ còn vang vọng mãi mãi .

Thật đáng tiếc do quốc hiệu 2 thành phần Việt và Nam hiện nay nên mọi người thường gọi là nước Việt người Việt theo lối gọi tắt đôi khi quên bẵng đi tên gọi nước NAM người NAM  gắn bó ngàn đời .


Thứ Hai, 5 tháng 5, 2025

Vài điều tưởng nhỏ ...nhưng không nhỏ chút nào .

 * Sử hiện hành viết : Lí Bôn - Lưu Bang khởi nghĩa ở núi Mang đãng  đât́ Phong nay có thêm  thông tin : Lí Bôn - Lưu Bang làm 1 chức  quan nhỏ của nhà Tần ở Tứ thượng , thực ra 2 từ ‘tứ thượng’ chỉ là trò lừa , theo phép phiên thiết : tứ thượng thiết Tượng chỉ quận Tượng , điều này đủ để xác định : quận Tượng của nhà Tần là đất Phong châu của người Việt ; Phong châu cũng là Hưng châu của nhà Tùy .Hưng châu chính là đất Hưng hóa  phía tây miền Bắc Việt nam .

Hưng châu cũng chính là nơi nổ ra khởi nghĩa Phùng Hưng bố cái đại vương , như thế Hưng là tên đất khởi nghĩa không phải là tên Việt của thủ lãnh Phùng Hưng Bì la Các - bố cái .

Thật chính xác với dòng tin ít người nhận ra :  Nam chiếu được khởi dựng phía tây Nhị hà tức Hồ̀ng hà nước Việt , người Tàu đã  làm loạn sử  bằng thủ đoạn vặt đổi Nhị hà thành Nhĩ hải là cái hồ lớn ở Vân Nam .


* Tư liệu lịch sư hiện hành viết cha con Lưu Khiêm Lưu Ẩn và Lưu Nhâm  vua kiến lập nước Nam Hán là người ;Thượng sái’  , Sử thuyết họ Hùng nhận ra ‘thượng sái thiết Thái  rất rõ ràng các vua Đại Việt đại Hán là người Thái 1 trong 2 sắc tộc chính của người Việt Kinh và Thái chứ  không phải Hán . tư liệu còn chép rõ các vua họ Lưu ...khởi nghiệp từ đất Phong sau mới mở rộng và lập nước Đại Việt  đô ở thành Phiên ngu hay phiên ngô nay là Quảng châu , sau đã công bố họ thuộc dòng dõi của Lí Bôn - Lưu Bang Hán cao tổ thuở trước nên đổi quốc hiệu Đại Việt thành thành Đại Hưng , sử Tàu đã sửa thành đại Hán , ai đọc sử Trung hoa cũng biết Lưu Bang miếu hiệu là Hiếu Cao tổ chẩng phải Hán Hung gì , Lưu Bang Hán cao tổ là tên và hiệu của ông vua kiến lập nước  Hán triệu ở Sơn Tây sau này là 1 khan hay hãn Hung nô chính hiệu  .

* Sử thuyết Hùng Việt cho Lưu Bị trong sử Thiên hạ chính là Lị phật Tử hậu Lí Nam đế của người Việt .

Có chứng cứ gì không ?

Lí phật Tử cũng là Lí bụt tử , phiên thiết Hán văn cho bụt tử thiết bự ,thì ra  Ĺi Bụt tử là Lí Bự , người Tàu nói tiếng ‘Hoa’ ngọng thành ra  Lưu Bị .

 Sử Tàu viết :  Lưu Bị có hiệu là Lưu Huyền đức , xét trên nền ngôn ngữ Dịch học thì  : Huyền màu Đen là Dịch tượng chỉ phương Nam , đớc là biến âm của đế ; suy ra Lưu Huyền Đức chính là Lí Nam đế , 

vì sử Việt đã có Lí Bôn - Lí Nam đế nên gọi Lí Bự là Hậu Lí Nam đế .

Việc xác định Hậu Lí Nam đế - Lí Bụt tử - Lí Bự  chính là Lưu Bị - Lưu Huyền đức vua kiến lập Tây Thục  xem ra đã có cơ sở .



Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

Đoạn sử Việt quan trọng

 

Lời tự bạch , 

Tôi nay đã cảm thấy yếu đuối lắm rồi nhưng lòng vẫn thấy như ...nợ nượ́c non trả chưa  được bao nhiêu :vì thế   vẫn gắng sức trải  ra những điều đang chứa trong đầu óc , nếu có gì  lủng củng hay sai xót xin độc gỉa lượng thứ .

...


Sách ‘Mộng Khê bút đàm’ viết :”…Giao Chỉ là đất cũ Giao Châu thời Hán, Đường. Thời Ngũ đại loạn lạc, Ngô Văn Xương trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng. Sau Văn Xương bị Đinh Liễn giết, lại có đất này. Năm thứ sáu niên hiệu Khai Bảo của quốc triều, Liễn mới theo về, trao chức Tĩnh Hải Quân Tiết độ sứ; năm thứ tám, phong Giao Chỉ Quận Vương…

Đoạn sách ngắn này chứa điều rất quan trong của Lịch sử Việt Nam .

… loạn lạc thời Ngũ đại … “trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng ”…làm chủ lĩnh Nam thời này thì không thể ai khác là anh em Lê Ẩn – Lê Nham (Lưu )…sao ở đây lại là Ngô văn Xương ? , theo Phiên thiết Hán văn thì văn xương thiết vương , không có ai tên là Ngô văn Xương , Lê Ẩn xây Hưng vương phủ ở thành Phiên Ngu Quảng châu, nên anh em ông được gọi là Ngô vương theo nghĩa là vương thành Phiên ngu hay Phiên Ngô .


917 đến năm 971, chủ yếu là trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), 

Vương quốc này mở rộng kinh đô ở Hưng Vương Phủ , ngày nay là thành phố Quảng Châu. 

Cùng năm này (911) Lưu Ẩn mất, em trai cùng cha khác mẹ là Lưu Nham lên thay. Tới năm 917, Lưu Nham tuyên bố thành lập một vương quốc mới, ban đầu gọi là Đại Việt , nhưng chỉ qua năm sau (918) đổi tên thành Đại Hán . Vì cái cớ họ của ông là Lưu  là họ của  Lưu Bang  nhà Tây Hán và ông ta coi mình là hậu duệ Hiếu Cao tổ  Lưu Bang .

Nước Đại Việt - Đại Hưng kinh đô ban đầu đặt ở Quảng Châu , là 1 trong Hoa Nam thập quốc lãnh thổ gồm Giao châu và Quảng châu giáp giới với các vương quốc: Mân, Sở và Nam Đường, nước Đại Lý và nước Hoàn vương sau là Chiêm thành .

Thực ra lịch sử không hề có cha con anh em Lưu Khiêm Lưu Ẩn và Lưu Nham , Lưu Khiêm cũng  gọi là Lưu Tri Khiêm mà theo phép phiên thiết Hán văn lưu tri thiết Li - Lê ; nơi phát tích dòng họ là Phong châu An Nam  tư lịệu lịch sử đã viết rõ ràng như thế , 3 nhân vật họ Lưu Tàu chính gốc chớp mắt biến ra 3 vị họ Lê , Lê Khiêm Lê Ẩn và Lê Nham rõ ràng là người Việt .

Lịch sử nước Đại Việt -đại Hưng đã bị bẻ cong bẻ quẹo ,Phong châu là nơi khởi phát cơ nghiệp các vua họ Lê nước đại Việt bị sử gia Tàu cho là thành phố Triệu Khánh Quảng Đông của nước Tàu , chính do vậy mà   dưới mắt người Việt ngày nay Lí khắc Chính và Lí Tiến trở thành 2 tên quan Tàu đô hộ , Quảng châu là phần đất thiêng liêng của tổ quốc biến thành đất giặc . Tiền nhân ...chính gốc biến thành giặc xâm lược cai trị .

Xin mở to mắt mà đọc đoạn sử ngắn trong sách Mộng khê bút đàm ....:Giao Chỉ là đất cũ Giao Châu thời Hán, Đường. Thời Ngũ đại loạn lạc, Ngô Văn Xương trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng  ... ,trước có An Nam sau chiếm Giao Quảng.... có đủ để  xác định Phong châu là đất nào hay chưa  ?.Sử thuyết Hùng Việt đã chứng minh Ngô văn Xương chính là Ngô vương thành Phiên Ngung Phiên Ngu tức anh em Lê Ân̉ và Lê Nham  trước là vương sau là vua nước đại Việt Đại Hưng .

Hậu quả của sai lầm không dừng ở đây mà di hại mãi về sau .

Năm 968 quân Tống do Phan Mĩ chỉ huy bắt đầu tấn công kinh đô Phiên Ngu , vua Đại Hưng Lê Sưởng sau khi sắp xếp chuyển quốc khố đi đã ở lại đích thân đốc chiến giữ thành , Năm 971 khi sắp thất thủ đã cho quân đốt rụi kinh thành quyết không cho quân Tống chiếm đỏng vơ vét , vua Đại Hưng đã bị quân Tống bắt đưa về kinh đô Tống .

Ở phía Tây theo sừ Việt : năm 968 Lí công Uẩn người làng Diên Uẩn châu Cổ pháp được suy tôn làm vua nhưng mãi tới năm 971 mất Phiên Ngung rồi mới đ̣ăng quang chính thức lên ngôi thực ra là thực hiện việc dời kinh đô Đại Việt - Đai Hưng từ phía Đông sang phía Tây , tư liệu gọi là Đinh bộ , đinh là Dịch tượng chỉ phía Tây .

Nhà nghiên cứu sử Bách Việt 18 cho biết câu đối ở Đình Dương Lôi Tân Hồng – Bắc Ninh như sau :

李核 出五蘝肇嗣和刀天 應瑞

Lý hạch xuất ngũ liêm, triệu tự ‘hòa đao’ thiên ứng thụy

蓮花開八葉結成木子地鐘靈

Liên hoa khai bát diệp, kết thành ‘mộc tử’ địa chung linh.

Và Tạm dịch:

Mầm Lý sinh năm cây, dựng nghiệp từ họ Lê trời cho điềm lành

Hoa Sen mở tám lá, kết thành họ Lý ở đất linh thiêng.

“Hòa đao” 和刀 là chiết tự của họ Lê黎

“Mộc tử” 木子là chiết tự của họ Lý 李

Hoa sen 8 lá ứng vào 8 đời vua nhà Lý nhưng triều đại trước cái nền để nhà Lý ra đời không thể là nhà tiền Lê của Lê đại Hành vì có kể cả Lê long Việt làm vua 3 ngày thì nhà tiền Lê cũng chỉ có 3 đời vua lấy đâu ra …Mầm Lý sinh 5 cây, dựng nghiệp từ họ Lê trời cho điềm lành.

Nếu Hoa sen 8 lá ứng vào 8 đời vua nhà Lý ở Thăng long thành thuộc Phong châu tức đất phía Tây thì 5 đời vua Lê ở vế trên phải ứng với 4 đời vua Đại Việt – Đại Hưng cộng với vì chúa tạo dựng nhưng không xưng vương : Lê Ẩn ( phải chăng Hán sử đã biến họ Lê thành họ Lưu ?) ở Hưng vương phủ – Quảng châu kinh đô nước Đại Việt – Đại Hưng thời triều đình phía đông ?.

Cũng theo nhà nghiên cứu lịch sử Bách Việt 18 :

Sách Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) ngoài chuyện chú chó con có chữ Thiên tử trên còn nói đến truyền thuyết về cây gạo đầu làng Cổ Pháp bị sét đánh nứt đôi, bên trong có chữ đề:

Góc chùa cây cả trực trời

Lại có chữ bày Hưng Quốc chi niên.

Rồi Lý Khánh Văn nhân đó đoán:

Điềm này nghiệm đến sự trời

Nào ai tuổi Tuất ấy người làm vua

Lên đền một mối tay thu

Chữ Hưng Quốc ấy ắt là thiên nguyên.

Rồi khi Lý Công Uẩn lên ngôi:

Thùy y củng thủ cửu trùng

Cải nguyên Hưng Quốc đề phong trong ngoài

Hoa Lư hiểm địa hẹp hòi

Xa giá bèn dời về ở Thăng Long.

Như vậy sách Thiên Nam ngữ lục cho ta một thông tin rõ ràng: Hưng Quốc từng là tên nước ta thời kỳ đầu triều Lý, gắn liền với Lý Công Uẩn và việc dời đô ra Thăng Long. Nước ta đầu triều Lý có tên là Hưng Quốc. Đây là quốc hiệu chưa từng được nói đến trong chính sử.

Danh xưng Hưng quốc này cộng hưởng với nghiã của kinh đô Hưng vương phủ đã khẳng định thời Hoa Nam thập quốc chỉ có nước đại Hưng chẳng hề có nước Hán hiếc nào và sâu hơn nữa to lớn hơn nừa .

Do thông tin ...năm 917, Lưu Nham tuyên bố thành lập một vương quốc mới, ban đầu gọi là Đại Việt , nhưng chỉ qua năm sau (918) đổi tên thành Đại Hán . Vì cái cớ họ của ông là Lưu  là họ của  Lưu Bang  nhà Tây Hán và ông ta coi mình là hậu duệ Hiếu Cao tổ  Lưu Bang .

Rõ ràng đoạn sử ngắn nhưng hệ lụy vô cùng to lớn , quan trọng ....Lịch sử nhân loại chẳng hề có nươc Tây Hán  chỉ có nước đại Hưng và nước mà sử Tàu Càn Long chế phẩm chứa ở 4 cái kho hàng gian hàng gỉa Tứ khố toàn thư gọi là Đông Hán do đám  hậu dụế của Lục Lâm thảo khấu dựng nên .

Vua tôi nhà Thanh đã cố ý xóa trắng kí ức của người Việt Hoa Nam , đắc biệt là với người Quảng Đông và khối người Ai Lao di ở Tây Nam Thiên hạ ., họ ra sức , nỗ lợc tẩy cho sạch mọi thông tin lộ ̉ ra  gốc gác giây mơ rễ má của khối dân này  với trước là Nam Việt sau là nước Nam chúa và Đại Việt .

Đám gian ác  đã trơ trẽn tráo trở đổi vùng Tây Nhĩ Hà quê gốc người Nam chúa - Nam chiếu , nơi nổ ra khởi nghĩa Phùng Hưng - Bì la Các Bố cái đại vương ở Tây Bắc Việt Nam thành ra hồ Nhĩ Hải ở Vân Nam .dù lộ Lâm An đất của Phùng An con Phùng Hưng còn chỉ định  rõ ràng trên bản đồ là phía Nam Vân Nam , Tây Nam Bắc Việt chạy tới đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh Việt Nam ngày nay .

Tương tự họ Cũng đổi đất  Phong châu -An Nam Việt nam ngàn năm lịch sử thành  thành phố Triệu khánh ở Quảng Đông  tức họ co rút tất cả về đất đai lãnh thổ  hiện có để đừng ai mơ tưởng vọng về quê cha đất tổ nữa .

Họ mơ tưởng sẽ có ngày toàn thể Thiên hạ không còn ai rõ chuyện động trời :

Hán tộc là con đàn cháu đống của các thiền vu Hung nô ., chẳng dính dáng gì với người  Trung quốc Hoa hạ dòng dõi  của Tam hoàng Ngũ đế cả .


Thứ Năm, 13 tháng 2, 2025

Thế thứ các đời vua Hùng -Việt (bản hiệu chỉnh 2025)


Niên đại

Sử Thiên Hạ

Sử Hùng Việt

Sử liệu dân gian

ghi chú


Sau Tam hoàng là thời Ngũ đế .

< 10000 TCN
đời Hùng vương thứ 1

Phục Hy

Hùng Dương

Thái Cao – vua Cả

Tổ phụ chi Đông- Động

10000 TCN
đời Hùng vương thứ 2

Thần Nông

Hùng Hiển

Thái Viêm

Tổ phụ chi La -
Lửa

đời Hùng vương thứ 3

Thiếu Hạo

Hùng Nghị - Bảo lang

Thái Khang

Tổ phụ chi
Tư - Định

đời Hùng vương thứ 4

Chuyên Húc

Hùng Diệp-Quan lang

Thái Tiết - Vụ Tiên

Tổ phụ chi
Nước - Lạc

3000 TCN
đời Hùng vương thứ 5

Hoàng đế - Hiên viên

Hùng Vũ- Hiền lang-đế Minh

Thái Công - vua Hùng ,vua cha ngọc hoàng thượng đế

kiến lập Hữu Hùng quốc - -
Quốc tổ


Thời Tam vương






3000 TCN
đời Hùng vương thứ 6

Nghiêu đế

Hùng Anh -Viêm lang – Kinh dương vương I

GiaoThường-Nam triều thánh tổ Ngọc hoàng Thượng đế , Nam bang triệu tổ

nước Xích qủy - Thủy

đời Hùng vương thứ 7

Thuấ́n đế

Hùng Lạc - Lâm lang – Kinh dương vương II

Diêu trọng hóa

cõi Nam Giao

2200 TCN
đời Hùng vương thứ 8

Đại Vũ ,

Hùng Việt-Tuấn lang – Kinh dương vương III

Sơn tinh - Tản viên sơn thánh quốc chúa đại vương - Cao Mật

kiến lập vương quốc họ Hùng


Thời Tam đại






2200 - 1600 TCN
đời Hùng vương thứ 9

đế Khải - Hạ vũ






Bá Ích

Hùng Hoa
- Hải lang

Khải - Khởi (bắt đầu)






nước Di Hạ lang – Dạ lang

Nhà Hạ , đô Dương thành
Quảng Đông


Dạ lang ở Qúy châu

3600 - 3400 TCN
đời Hùng vương thứ 10

Thành Thang

Hùng Huy
– Long tiên lang

Lang Thang

Nhà Thương
đô thành can Tân

1400 - 1100 TCN
đời Hùng vương thứ 11

Bàn Canh

Hùng Uy
– Hoàng hải lang

Hoài Di

Nhà Thương Ân
Bàn long thành
*nước Dạ lang , câu Ngô, câu Tiến , câu Đinh ở
Hoa Nam

1100 -TCN
đời Hùng vương thứ 12

Châu Văn vương

Hùng Chiêu
– quốc tiên lang

Lăng Xương ( lang)
An Dương vương


Văn lang – Âu Lạc
đô Phong châu

1100-770 TCN
đời Hùng vương thứ 13

Châu Vũ vương

Hùng Ninh
– Thừa Văn lang

Linh lang
bà Nghi ̣Điệt

*Tây Châu
đô Kiểu kinh

770 -256 TCN
đời Hùng vương thứ 14

Châu Bình vương

Hùng Tạo vương Đức quân lang


Đông châu
đô Lạc Ấp



220 - 206 TCN
đời Hùng vương thứ 15

Tần Thủy hoàng

Hùng Định - Chân lang

Đinh tiên hoàng
*Lang sói

đế quốc Tần-
*Tần diệt Châu
*Triệu Đà diệt An dương vương

206 TCN - 111 TCN
đời Hùng vương thứ 16










111TCN - 9 SCN
đời Hùng vương thứ 17

Hiếu Cao tổ -


Nam Việt vũ






Thiền vu Hung nô Mao Dun


Hiếu Vũ đế

Hùng Trịnh - Hưng đức lang
Triệu Đà












Hùng Triệu vương Cảnh Triệu lang

lang Ba - lang Bang


Lý Nam đế






Mao Dun đối thủ Lưu Bang


Lưu Triệt

Hưng quốc


nước Nam Việt ở Phiên Ngung




đế quốc Hung nô đô Mông cổ


nhà Hiếu đô ở Trường An

9 - 23 SCN
đời Hùng vương thứ 18

Vương Mãng
- Vãn đế

Hùng Duệ
- Duệ lang

Vãn đế (vãn lả hết)
duệ ( kéo dài)

nhà Tân ,
đô Trường An

Vương Mãng cải cách thiết lập xã hội lý tưởng theo Nho giáo khiến cả xã hội trở nên rối loạn tột cùng , chính sách Vương Mãng phân biệt chủng tộc hạ thấp địa vị người Hung nô không đứng ngang hàng với người họ Hùng , đổi tước vương của lãnh đạo Hung nô thành tước hầu , và đặc biệt ...cấm họ Lưu làm quan thực ra là triệt hạ thế lực người Liêu 1 nhánh của Hung nô đang có vai vế trong chính quyền của triều đại Lưu Bang
Tức nước vỡ bờ đám qúy tộc Liêu quy tụ thành Lục lâm thảo khấu nổi loạn , trộm cướp đắc thời đánh bại quân nhà Tân giết Vương Mãng , rồi tôn tướng cướp Lưu Huyền là Hán Canh thủy , tướng cướp Lưu Tú là Hán Quang vũ của chúng kiến lập Hán quốc ,
Lưu Tú - Quang vũ đế kéo quân Hán đánh bại giết Kiến thế đế và thủ lãnh Phàn Sùng của nghĩa quân Xích My rồi lần lượt chiếm đóng từ Bắc xuống Nam Thiên hạ ,
Năm 42 SCN quân Hán chiếm Giao chỉ ; Hữu Hùng quốc diệt vong chấm dứt 18 đời Hùng vương .

Phục hưng lần 1


184 SCN -205 SCN

Khởi nghĩa Khăn Vàng

*bà Trưng
*bà Triệu – Triệu quốc Đạt



Khu Liên

*nước Hùng Lạc
*Lâm ấp


Thời đại chiến Bách Việt và Bách Man .


- Bách Man thuộc Huyền thiên .

các nhánh của Đông Hán phân rã thành ,

*Viên Thiệu cầm đầu chi Hán ,

*Tào Tháo cầm đầu Tào Nguỵ ; tào ngụy sát nghĩa phải dịch là ‘giặc Tầu’.

*Đổng Trác cầm đầu đám rợ Khương phía Tây Bắc ; đổng trác không phải là tên và họ mà là phiên thiết của Đác tức giặc Thát bạt .

* Nhánh Tấn thực ra là Tây Hán của họ Tư Mã . Tây hán thiết tấn


- Bách Việt ở Viêm thiên .

Viêm thiên cũng là vùng Viêm nhiệt ; viêm nhiệt thiết Việt

Khởi nghĩa Khăn Vàng tuy thất bại nhanh chóng nhưng đã đưa đến 2 cuộc khởi nghĩa khác sau đó cuả .

* Tôn Kiên – Tôn Quyền ở Đông Nam Thiên hạ kiến lập nước Ngô

* Phía Tây Nam Lí Thiên Bảo và Lí Phật tử cũng nổi dậy thành công kiến lập nước Thục

Sử Trung quốc gọi thời này là Tam quốc ,

Sử thuyết Hùng Việt gọi là Thời - lưỡng quốc kháng Ngụy


221–263

Lưu Biểu – Lưu Bị
Lưu Huyền đức

Lý Thiên Bảo –
Lý Phật tử

Kiểu (cửu) công
-hậu Lí Nam đế



Nước Thục

222–280

Tôn Kiên


Tôn Quyền

Dương Đình Nghệ
– Ngô Quyền

Dương công


Ngô Tôn Quyền





Nước Ngô






Thời Nô lệ Hán quốc lần 2 - Tào Ngụy , Tấn chiếm Ngô và Bắc Thục

Hung nô chiếm và làm chủ Thiên hạ cho ̣đến khoảng năm 494 SCN thì Hiếu Văn đế say mê văn minh Thiên hạ bắt đầu quá trình chuyển đổi mạnh mẽ 1 triều đại Hung nô thành triều đại của người họ Hùng cụ thể :
– Đổi sang họ Hán : Nguỵ Thư, Quan Thị Chí, ghi 118 họ dân tộc Hồ đổi sang họ Hán ; như họ tôn thất Thác Bạt đổi thành Nguyên , họ Độc Cô đổi thành Lưu .
– Bỏ tiếng Tiên Ty, dùng Hán Ngữ ; nếu bắt gặp dùng chữ Tiên Ty bị giáng chức quan.
– Thông hôn : cổ vũ thông hôn với thế gia Hán tộc.
– Giáo dục : thờ Khổng Tử, tôn Nho học ; thiết lập nhà Thái Học.
Việc triều chính dựa theo Châu lễ
Từ năm 557 tới năm 581. Cơ sở quyền lực của nhà Bắc Chu được Vũ Văn Thái, một viên đại tướng nhà Tây Ngụy,xét theo danh xưng thì rất có thể ông là người họ hùng ;(Vũ chính là kí âm từ vua của Việ̃t ngữ) thiết lập sau khi nước Bắc Ngụy chia thành Tây Ngụy và Đông Ngụy vào năm 535.
năm 556 SCN Vũ văn Giác con của Vũ văn Thái chiếm quyền vua Tây Ngụy lập ra nước Bắc Châu
năm 572 Vũ văn Ung được lịch sử công nhận là Bắc châu vũ đế nắm quyền đã diệt 

Bắc tề thống nhất Thiên hạ lập ra triều đại Bắc Châu mới , định đô ở Trường an.

557–581

vũ văn Ung – Bắc Châu vũ đế

Đinh Hoàn – (hoàng)


Triều chính Châu lễ

581–618

Nhà Tùy –
Dương Kiên

Dương Tam ca
(kha)

lầm lẫn với Lê Đại Hành

nước Tùy – Sủy - Sở

618–907

Nhà Đường –
Lý Uyên

Lý công Uẩn

hậu duệ : Lão tử

Đường – tiền Lý

690 - 705

Võ tắc Thiên ,

Ỷ Lan thái phi

hậu duệ : Cơ Xương

Nhà Võ Châu

Thời Bắc Thiên hạ 5 đời giặc
Nam 10 nước










713 - 722


Mai Hắc đế


Thành Vạn an -Nghệ An

738 - 902

Nam Chiếu







Phùng Hưng - bố cái đại vương II (Nam Chúa)


-Con : Phùng An –


-em : Phùng Hải

nước :Mông – Lễ - Đại Lí


-nước Hoàn vương-Chàm

880-894




905 – 911


917 - 941

- Lưu tri Khiêm




- Lưu Ẩn


-Lưu Nhâm
Nam Hán cao tổ

Khúc thừa Dụ - ông Cụ


Khúc Hạo tiết độ sứ - ông Cậu
Khúc thừa Mỹ
- ông Cả

Ngô xương văn -
Ngô văn xương
Ngô vương

Hưng vương
phủ
-Đại Việt
–Đại Hưng

960 –1279

Triệu Khuông Dận
Tống thái tổ


lập nước Tống ở phía Bắc

Tống chiếm Đông Đại Hưng

Từ 1115 – nay

*Hung nô chiếm gần trọn Thiên hạ








Thiên hạ hoá thành Trung quốc của Rợ :






các triều Nguyên – Minh – Thanh

Thời Đại Hưng -Đại Việt Tự chủ
971 – 1945




Đồng thời khoảng Sau 1200









*Mông cổ rút chạy khỏi Đông Nam Á

Nhà Lý ,
-Trần,
-Hồ ,
-Lê ,
-Nguyễn



*Đông Nam Á Hình thành Các nước mới hậu Mông cổ

-Lý thái tổ
-Trần thái tông
-Hồ qúy Ly
-Lê thái tổ
-Gia Long
-Minh Mạng

Đại Hưng - Đại Việt
- Đại Ngu
-Đại Việt
-Việt nam
-Đại Nam


- nước Lỗ xưa thành Thái – Lào.

- nước Yên xưa thành Chămpa

- nước Tề xưa thành Phù Nam - Chân lạp

1867 - 1945 


1945 – 1954



1954 - 1975


-thực dân Pháp cai trị 


- kháng chiến
chống Pháp


- nội chiến





2 nước Việt Nam





- Bắc Việt Nam
-Nam Việt Nam

1975 nay


Tự chủ

Dân quốc

Việt Nam Thống nhất


Hữu Hùng quốc phục hưng vinh quang từ Năm 1967 dưới danh xưng ASEAN hiệp hội các nước Đông Nam Á .

Hiện bao gồm các phần :


- đất Đông Châu xưa nay là Việt Nam .

- Nước Yên sau là Chiêm nay thuộc Việt Nam

- Nước Lỗ nay là Thái – Xiêm và Lào hay Lão qua .

- Nước Tề nay là Campuchea và Malaysia trước là Chân Lạp – Miên và Phù Nam

ngoài ra Asean còn có :

- Myama trước là Miến hậu thân của nước Đốn Tốn – Điền Tuấn

- Indonesia còn gọi là Chà và hay Sri Vijaja – Qua oa

- Philipines là Lữ Tống xưa


Và các nước


- Nước Singapor tân lập

- Nước Brunei tân lập

- Nước Đông Timor tân lập


Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2025

Lạc Long Quân trở về

 Nguồn https://bahviet18.com/2025/01/28/lac-long-quan-tro-ve/

Bạn biết gì về thủy tổ Lạc Long Quân và thời đại những người con theo Cha Rồng xuống biển?
Năm Giáp Thìn 2024 đã qua, năm Ất Tỵ 2025 đã đến. Cha Rồng Lạc Long Quân lại hiện thân trở về với miền sông biển Việt Nam qua cuốn sách dày hơn 670 trang mang tên Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị do Nhóm Nghiên cứu Di sản Văn hóa Đền miếu Việt biên khảo.
Lạc Long Quân trở về Anh-bia-lac-long-quan
Trong cuốn sách bạn sẽ biết Liễu Nghị – ông là ai? Việt Nam Lạc Thị là những vị quốc tổ nào? Vua cha Lạc Long Quân được thờ phụng dưới những tên gọi nào? Thần Chính khí Long Đỗ của Thăng Long có nguồn gốc ra sao?… Bạn cũng sẽ biết Thủy phủ công đồng trong Tam phủ, Tứ phủ gồm những ai. Động Đình Long Mẫu, Động Đình Đế Quân, Động Đình Bát Hải Long Vương, Ngũ vị Tôn quan, Hà Bá Thủy quan… là những vị tiên tổ nào của người Việt.



Những vị tiên thánh của thời kỳ Lạc Thị Hồng Bàng được khái quát và được định vị một cách độc đáo trong cuốn sách. Đó là Ngũ phương thiên đế ở khắp tứ hải trong Đạo Giáo từ khi Đạo mới hình thành. Đó là các vị thần Tứ trấn của các kinh đô Thăng Long, Hoa Lư. Đó là vị thần bất tử Chử Đạo Tổ của miền đầm nước Dạ Trạch. Những tín ngưỡng thờ thủy thần này xuất phát từ lịch sử đã ăn sâu vào tâm thức dân gian, trở thành nền tảng trong văn hóa Việt.
Ngay cả tín ngưỡng dân gian ở khu vực Thanh Oai, được biết với tên gọi Sa Môn giáo cũng được dẫn tư liệu gốc Bách Việt triệu tổ cổ lục (hay Cổ Lôi ngọc phả truyền thư). Đồng thời tư liệu này cũng được phân tích, đối sánh một cách xác đáng với lịch sử Việt thời Lạc Thị.
Cũng trong cuốn sách này bạn sẽ được tiếp cận với những tư liệu Hán Nôm đầy đủ về thời kỳ lập quốc 4.000 năm của người Việt. 10 bản ngọc phả thu thập từ nhiều nguồn khác nhau được giới thiệu nguyên văn và dịch nghĩa trong cuốn sách. Qua đó bạn có thể đọc những ghi chép gốc về Ngọc Nương Thánh Mẫu Thủy cung ở đền Tiên Cát, Việt Trì, Phú Thọ; về Vua cha Bát Hải ở đền Đồng Bằng, Quỳnh Phụ, Thái Bình; về Tam Lang Long hầu ở đình Đào Xá, Thanh Thủy, Phú Thọ; về Bạch Hạc Tam Giang ở đình Đa Chất, Phú Xuyên; về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương trong vùng tín ngưỡng Việt Nam Lạc Thị ở Thuận Thành, Bắc Ninh; về Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại đế bên sông Hồng…
Không dừng lại ở đó, cuốn sách cung cấp cho bạn những hiểu biết và nhận thức một cách có hệ thống và khoa học về lịch sử các dân tộc. Đó là sử thi Mường Đẻ Đất Đẻ Nước với Dịt Dàng, Lang Cun Cần, Tòng Ín… Là sử Dao với Bàn Vương, thủy tổ 12 họ người Dao. Đặc biệt, cuốn sách công bố tư liệu điền dã trực tiếp rất chân thật về tín ngưỡng và lịch sử Lạc Việt của người Choang ở Quảng Tây. Đây là lần đầu tiên những tư liệu, những hiểu biết này được công bố rộng rãi tới công chúng.
Cuốn sách cũng đã tổng hợp các di tích thờ thủy thần của các tỉnh miền Bắc dọc theo lưu vực các con sông lớn, mà lớn nhất là dòng sông Hồng, vốn được tôn thờ trong tín ngưỡng dân gian là Tam Đầu Cửu Vĩ Long vương. Từ thượng nguồn ba sông Đà Lô Thao ở Yên Bái, Tuyên Quang, vùng đất Tổ ngã ba Việt Trì, Phú Thọ, qua vùng rốn rồng Thăng Long Hà Nội. Vùng lưu vực tả và hữu ngạn sông Hồng ở Hà Nam, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương. Vùng ven biển Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh thờ các vị Hải thần. Vùng trung du ở Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Thái Nguyên thờ các vị sơn thủy thần. Đến cả những nơi tưởng chừng không có liên quan tới thời Lạc Long Quân như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, hóa ra lại là những nơi còn lưu những dấu tích cổ xưa nhất, nguyên sơ nhất về 4.000 năm dựng nước.
Thời kỳ Lạc Long Quân dựng nước bên bờ biển Đông tưởng chừng như đã chìm vào bị quên lãng, nay đã trở nên sống động, chân thực, với từng nhân vật, từng vùng đất, từng sự kiện trong cuốn sách. Năm Ất Tỵ 2025, các vị thủy thượng linh thần lại một lần nữa hiển hiện trên cõi Dương gian, đức Vua cha Lạc Long Quân lại trở về với nòi giống Việt, đem lại niềm tin cho con dân Việt với tiên tổ, với quá khứ vẻ vang và có sự phù trợ của tiền nhân mà vững bước trước tương lai.



Bạn đọc có thể đặt trước cuốn sách Kinh triều bảo lục – Sử tích Long Quân và các vị Thủy thần Lạc Thị theo đường dẫn dưới đây: https://forms.gle/RNn7snBCcg3N3YTEA
Những bạn đặt trước ngày 15/2/2025 sẽ có được cuốn sách quý này tận tay với giá 300.000 đ ngay khi nó được xuất bản, thay cho giá bìa là 500.000 đ.
Toàn bộ kinh phí thu được từ cuốn sách sẽ được Nhóm Nghiên cứu Di sản Văn hóa Đền miếu Việt sẽ sử dụng vào mục đích điền dã, thu thập tư liệu, biên soạn xuất bản những cuốn sách mới về cổ sử Việt.
Mọi liên hệ và trao đổi liên quan đến cuốn sách và đến thời kỳ Lạc Thị Hồng Bàng xin liên hệ với trang facebook Hùng Việt sử quán hoặc theo Zalo Đền miếu Việt số 0559551003.
Bách Việt trùng cửu Nguyễn Đức Tố Lưu
Tôi viết bài thơ đất nước tôi
Gian nan từ thuở mới ra đời
Ngọn gió Động Đình ru ta lớn
Trăng chiếu sông Đường nước đầy vơi
Trăm trứng Mẹ sinh dòng Bách Việt
Diệt quái Cha Rồng mở biển khơi
Lang Thang dân tiến chinh phương Bắc
Âu Lạc văn minh mãi rạng ngời.

Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-1Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-2Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-3Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-4Lạc Long Quân trở về Su-tich-long-quan-muc-luc-tr-5