Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

Các đời vua nước ‘TA’ .

 

Giới sử học Trung quốc đã cố ý gộp chung lịch sử họ Hùng vào với lịch sử rợ Ngũ Hồ biến cả Hưng quốc và Hãn quốc thành ra Hán quốc mập mờ đánh lận con Đen tạo ra cái quái thai ghép đầu Rồng lên mình Ngựa gọi là lịch sử Hán quốc .
Sử thuyết Hùng Việt đã tách bạch rõ ràng thành 2 pho sử riêng biệt …của ai trả cho người ấy nhằm bịt cái mồm …vừa ăn cướp vừa la làng lại ;
Kẻ toan chiếm đoạt đất nước và thành tựu văn minh của người khác , chiếm lịch sử và độc đáo chiếm luôn cả tổ tiên của người khác đã lộ nguyên hình …kẻ dối trá , lịch sử chân thực Hữu Hùng quốc hiển hiện :
 
Nước ta sau thời Huyền sử  ...:
NămTriều đạiNước
. < 3000 TCN
2100–1600 TCN
Hùng Việt , Đại Vũ -Tuấn lang
Hùng Hoa , Nhà Hạ -Hải lang
Kiến lập vương quốc –
Thiên hạ
.1600–1046 TCNH- Uy , Nhà Thương -
Hoàng hải lang
Thiên hạ
1046 – 1134 TCNH Chiêu , Văn vương –
Quốc tiên lang
Âu Lạc – Văn lang
. 1134 –771 TCNH Ninh , Tây Chu –
Thừa Văn lang
Âu Lạc – Văn lang
. 770– 256 TCNH Tạo , Đông Chu –
Đức Quân lang
Âu Lạc – Văn lang
256 – 220 TCNTranh dành -trống ngôi
221–206 TCNH Định , Nhà Tần – Chân langĐế quốc Tần



206 TCN – 9 SCNH Trịnh , Đại Hưng –
Hưng Đức lang
Đại Hưng
9–23 SCNH Duệ , Nhà Tân – Duệ langĐại Hưng kéo dài


23-25 SCN Lục lâm thảo khấu nổi lọan , lập Hãn quốc với 2 triều Hán Canh Thủy và -Hán Quang Vũ
25 – 420 SCN trừ đất Tây – Nam nay là Đông Nam Á
Thiên hạ bị các nước rợ Hung nô là Đông Hán , Tào Ngụy và Tấn chiếm
221–263Lý Thiên Bảo – Lý Phật tử
Lưu Biểu – Lưu Bị
Nước Thục
222–280Dương Đình Nghệ
Tôn Kiên
Nước Ngô
304 – 439 SCN Ngũ Hồ cai trị Bắc Thiên hạ
386 – 577 SCN Nam Bắc Triều của rợ Hồ
557–581Nhà Bắc Châu
Đinh Hoàn – vũ văn Ung
Bắc Châu
557–589Nhà Trần Hoa NamTrần
581–618Nhà Tùy – Dương Tam ca
Dương Kiên
Sở
618–907Nhà Đường – Lý công Uẩn
Lý Uyên
Thường
907 – 960 SCN Ngũ đại rợ Hồ cai trị Bắc Thiên hạ
Nam Bắc Triều , rợ Hồ chiêm hết Thiên hạ (trừ đất Giao chỉ và đất phía Tây – Nam)


738 - 902
907 - 971

Phùng Hưng
Khúc Hạo - Lưu Ẩn
Nam Chúa
Đại Việt Hưng quốc
971 - 1945Nhà Lý , Trần, Hồ ,
Lê , Nguyễn
Đại Việt - Đại Hưng
Đại Ngu - Việt Nam , 
Đại Nam
1945 - nayCộng hoàViệt N am
907 – 1125 SCN Bắc Thiên hạ bị rợ Liêu và Kim chiếm và cai trị
(trừ đất Giao chỉ và đất phía Tây – Nam)
1271 – 1368 SCN rợ Nguyên Mông cai trị gần trọn Thiên hạ
(trừ Giao chỉ )
Sau 1402 nhà Nguyên rút về đất Mông cổ sử Tàu gọi là nhà Bắc Nguyên sau bị Thanh diệt
1402 – 1644 SCN nhà Minh rợ Hồ Chu Đệ chiếm quyền cai trị nước Ngô
( trừ phần đất Tây Nam )
1644 – 1902 SCN nhà Thanh rợ Hồ cai trị
(trừ Giao chỉ và phần đất Tây Nam Thiên hạ là lãnh thổ các nước Lỗ ,Yên, Tề và đất vua Châu ban cho họ Phan trước đây ).
1612 – nay SCN thành lập Hợp chủng quốc Hồ Hoa còn gọi là Trung quốc trên lãnh thổ trước là Thiên hạ và đất đai của rợ Ngũ hồ
(trừ ra Giao chỉ và phần đất Tây Nam Thiên hạ là lãnh thổ các nước Lỗ ,Yên, Tề xưa và đất họ Phan nay là Phù Nam ) là lãnh thổ ASEAN nay ..

Thứ Ba, 31 tháng 12, 2024

Động Đình Long Quân ký

 Nguồn Động Đình Long Quân ký – Bách Việt trùng cửu

Biên chép về thời kỳ Long Quân Lạc Thị qua tổng hợp từ Truyện họ Hồng Bàng và các di tích, thần tích tín ngưỡng thủy thần trên đất Việt.
Xưa, cháu ba đời của Viêm Đế thuộc họ Thần Nông là Đế Minh, Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Một lần đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp được nàng Vụ Tiên, lấy làm vợ, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh, sớm trưởng thành. Đế Minh bèn lập Đế Nghi cai quản đất Bắc, phong Lộc Tục trị vì phương Nam.
Đế Minh được tôn là đời Hùng Vương đầu tiên với tên thờ là Hùng Vương Sơn Nguyên Thánh Tổ Đột Ngột Cao Sơn. Bà Vụ Tiên lấy vua Hùng ở Ngũ Lĩnh là Tây Thiên Quốc mẫu, đã gặp Đế Minh ở ngọn núi Phù Nghĩa trên dãy Tam Đảo. Đế Nghi là người kế tục Đế Minh, được tôn là đời Hùng Vương thứ hai với tên là Viễn Sơn Thánh Tổ, cai quản vùng đất Hồng Lĩnh ở phương Bắc xưa gần Xích đạo.
Lộc Tục nối tiếp ngôi vua, đóng ở vùng đất phương Nam xưa, tức vùng đất Lạc trên miền Bắc Việt ngày nay. Lộc Tục được tôn là Ất Sơn Thánh Tổ, là đời Hùng Vương thứ ba. Đế Minh, Đế Nghi và Lộc Tục là 3 vị Hùng Vương Thánh Tổ được người Việt tôn thờ ngàn đời trên núi Hùng ở miền đất tổ Phong Châu.
Kế ngôi vị của Ất Sơn Thánh Tổ theo lối truyền hiền (truyền cho con rể) là Tản Viên Sơn Thánh, nhờ có công lớn trong quá trình trị thủy thời Đường Nghiêu, khi nước lũ ngập ngang trời. Sơn Thánh lên ngôi gọi là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương trị vì phương Nam, lấy hiệu là nước Xích Quỷ, tức là Thủy quốc. Người Mường gọi Sơn Thánh là Lang Cun Cần, lưu truyền ngàn đời trong sử thi Đẻ đất Đẻ nước về sự kiện Kinh Dương Vương khởi đầu lịch sử người Việt với hai dòng sơn thủy. Hùng Vương Ngọc phả gọi ông là Hùng Việt Vương, đời Hùng Vương thứ tư trong Cổ Việt Hùng Thị Thập bát thế. Lịch sử Trung Hoa gọi ông là vua Đại Vũ trị thủy bên bờ Long Môn tại Thác Bờ (Hòa Bình).

Kinh Dương Vương thường dạo chơi dưới Thủy phủ, sau lấy con gái Động Đình Quân Long Vương. Long Vương Động Đình Đế Quân cũng là Long Đỗ hay Thủy phủ Phù Tang Cam Lâm Đại Đế, là người mở đầu của Thủy quốc Động Đình ở vùng ven sông biển. Kinh Dương Vương được dòng Thủy phủ gọi là Long cung Liễu Nghị, người đã kết duyên cùng Xích Lân Long Nữ của Thoải phủ. Kinh Dương Vương theo đó còn được gọi là Bột Hải Long vương.
Hai người sinh ra Lạc Long Quân bên bờ hồ Động Đình. Lạc Long Quân được kể là hoàng tử Linh Lang ở hồ Dâm Đàm, vốn là nơi rốn rồng của Thủy quốc Động Đình.
Lúc ấy, ở vùng đất Hồng Lĩnh phương Bắc xưa Đế Nghi đã truyền ngôi cho con là Đế Lai. Khi Kinh Dương Vương mất, Đế Lai muốn nhòm ngó nước Xích Quỷ nên đã xâm nhiễu phương Nam xưa, người dân địa phương không được yên. Dân chẳng thể làm ngơ liền dắt nhau gọi Long Quân rằng:
– Bố ơi! Chúa xứ Bắc quấy nhiễu nhân dân khổ lắm!
Long Quân vội đến, có thần thuật ẩn hiện biến hóa ra muôn trạng, yêu tinh quỷ mị, rồng rắn, tê giác, voi. Những kẻ tìm đến đều sợ hãi không dám tiếp tục. Đế Lai đành phải bỏ về.
Đế Lai được dòng Lạc thị kể là quân Thục tấn công đất nước của Hùng Vương. Linh Lang cùng với Lục bộ Thủy phủ dâng nước đánh đuổi quân Thục, chiếm được vị trí chủ thiên hạ, đóng đô nơi hồ Dâm Đàm, đất Thăng Long.
Lạc Long Quân lên ngôi, là Vua cha của Thủy phủ, tức Bát Hải Động Đình Long Vương của trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Lạc Long Quân lập quốc lấy tên là Đào Hoa trang hay Hoa Hạ, lấy màu đỏ tượng trưng cho vùng đất ở gần miền Xích Đạo. Hùng Vương Ngọc phả gọi Lạc Long Quân là Hùng Hoa Vương, đời Hùng Vương thứ năm trong 18 đời vua họ Hùng.
Trong cuộc chiến này Lạc Long Quân được sự giúp đỡ của cả bên dòng Lạc của cha (Kinh Dương Vương) và dòng Long của mẹ (Thần Long Động Đình), nên khi lên ngôi vua lấy danh xưng là Lạc – Long Quân, tức là thủ lĩnh của cả 2 tộc người Lạc và Long.
Thủy quốc do Lạc Long Quân cai quản là khu vực các tộc người sinh sống dọc các nhánh của hệ thống sông Hồng và ven biển Đông thời cách nay trên 4.000 năm. Tên gọi Động Đình do đó gặp từ ngọn nguồn ba sông Đà Lô Thao, hợp lưu tại ngã Ba Hạc Việt Trì, rồi chia 9 nhánh theo cha Lạc Long về biển. Biểu tượng của Thủy quốc Động Đình là Long vương Tam Đầu Cửu Vĩ, hình tượng của dòng sông Hồng trên đất Việt cổ.
Trong cuộc chiến lập quốc của Lạc Long Quân, đứng đầu bên dòng Kinh Dương Vương – Tản Viên Sơn Thánh là người chú Quý Minh đã cùng cháu đánh giặc và yên dân ở khắp nơi. Còn đứng đầu các bộ Thủy phủ Long cung là những người anh em sinh cùng bọc (cùng mẹ) của Lạc Long Quân. Do nước của Lạc Long Quân là Đào Hoa nên các vị Thủy quan này thường được chép mang họ Đào.

Trong số những vị Long hầu này vị có quyền hành lớn nhất là Thổ Lệnh Trưởng, quyền chưởng Trung Hoa Quốc tể, được gọi là Quan lớn Đệ Tam trong tín ngưỡng Tam tứ phủ. Người anh em có quyền lực thứ hai là Thạch Khanh, được gọi là Quan lớn Đệ Ngũ. Hai vị “sinh Bạch Hạc”, nên được gọi là các thần Bạch Hạc Tam Giang. Còn nơi thực ấp của Trung Thành Thổ Lệnh là ở vùng ngã ba Lảnh (Thường Tín – Hà Nam – Hưng Yên). Thạch Khanh hay Quan Tuần Tranh ban đầu tuần thú ở vùng sông Tranh (Hải Dương), sau bị dời lên miền sơn cước Lạng Sơn bên sông Kỳ Cùng.
Lạc Long Quân dạy dân cấy lúa trồng dâu, định tôn ti thứ bậc vua tôi, vợ chồng cha con theo đạo luân thường, khi về nơi sông nước, trăm họ sống vui vẻ tự nhiên, gặp việc cất tiếng gọi Long Quân bằng bố (tục phương Nam gọi cha là bố):
– Bố ơi! Ở đâu sao không ở đây sống với chúng con?
Tức thì Long Quân đến, dáng vẻ uy linh, cảm ứng khó lường.
Bắt đầu từ Lạc Long Quân, ngôi vị thủ lĩnh thiên hạ được định đoạt theo dòng phụ đạo, tức là cha truyền con nối. Vì vậy Lạc Long Quân được gọi là “Bố”, hay đức Vua cha của Thủy quốc.
Lại đặt tướng văn là Lạc hầu, tướng võ là Lạc tướng; con trai Vương là Quan lang, con gái Vương gọi là Mỵ nương; các ty gọi là Bồ chính, đầy tớ gọi là Xảo xứng. Đời đời cha truyền con nối gọi là Phụ đạo, chủ tướng tương truyền đều lấy hiệu là Hùng Vương mà không đổi.
Đất nước được chia thành nhiều vùng, mỗi vùng do một vị Long hầu phụ trách cai quản như lời Lạc Long Quân nói:
– Nay ta chia ra năm mươi người con quay về Thủy phủ mà chia trị các nơi, năm mươi người con theo nàng lên núi chia nước mà trị vì, lên non xuống biển có việc nghe được cùng giúp đỡ lẫn nhau, chớ được quên hẹn ước.
Bấy giờ, người ở trong rừng, chân núi đi bắt cá dưới nước thường bị giao long làm hại, liền nói với Vương bảo:
– Người Man ở núi với Thủy tộc khác biệt nhau, có kẻ xấu người tốt cho nên xâm hại lẫn nhau.
Vương liền lệnh cho thích mực vào người các hình trạng Long Quân, thủy quái thì giao long không dám cắn. Vì vậy, người Bách Việt có tục xăm mình.
Những vị thủy quan phụ trách cai quản các xứ do đó được thể hiện là những vị thần rắn hay Long vương. Suốt chiều dài thời gian của Lạc triều gần ngàn năm đã có nhiều vị thủy quan ở các khu vực. Tên tuổi, công nghiệp của họ do đó thường được gắn với sự tích sinh ra cùng bọc trứng, trưởng thành có khí chất như rồng như rắn, đánh giặc, trị thủy. Lúc hóa được tôn thờ là các vị thủy thần.

Thủa sơ khai, dân làm không đủ ăn nên lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ làm chiếu, lấy cây quan lang đồ lên ăn, bắt chim thú, cá tôm làm chất mặn, củ gừng làm chất cay, lấy dao, lửa canh tác (tức là đốt nương làm rẫy), phần lớn là lúa nếp, lấy ống tre bắn chim, gỗ làm nhà tránh thú dữ, cắt tóc để tiện đi vào núi rừng, sinh con thì bọc bằng lá chuối, chết thì lấy dùi đánh mõ làm hiệu, làng xóm nghe thấy chạy đến giúp. Nam nữ lấy chồng, lấy vợ trước tiên phải có gói trầu cau, rồi sau mới giết bò, dê làm lễ, lấy cơm nếp cùng nhau ăn cho hết mới thành thân. Về sau đường lối thông suốt. Trăm người con trai chính là thủy tổ của Bách Việt vậy.
Dưới triều đại Lạc Thị, người Việt phát triển nghề nông tang, trồng lúa, trồng khoai, săn bắt chim thú, đánh cá ở sông biển, chăn nuôi bò dê, làm nhà gỗ, sống thành làng xóm, kết hôn lập gia đình, hình thành phong tục, lễ nghi, đường lối thông suốt. Lạc Long Quân cùng các vị Lạc hầu, Lạc tướng trở thành những vị thần tổ phù hộ người dân an cư lạc nghiệp ở miền đồng bằng.
Vào giữa thời Lạc triều, một vị quan Hầu đến từ vùng xứ Nghệ là Chử Đồng Tử đã tiếm ngôi dòng Lạc Thị, chặn đường Lạc Vương ở bãi Tự Nhiên bên bờ sông Hồng. Chử Đồng Tử lập nước riêng, gọi là Trạch quốc, đóng đô ở Khoái Châu (Hưng Yên), có nhiều quan quân theo về. Chử Đồng Tử xây dựng lâu đài, phát triển giao thương đường thủy, kết nối hai vùng đất Hồng và Lạc của thiên hạ. Chử Đồng Tử cũng phát huy lý thuyết Âm dương Ngũ hành, tròn vuông từ thời Tản Viên Kinh Dương Vương, học Tiên đạo từ vùng đất phía Tây (Tây Vương Mẫu – Tây Thiên Quốc mẫu) chữa bệnh, chữa lành cho nhân dân. Tuy nhiên, Chử Đồng Tử “một đêm về trời”. Nước Đào Hoa Hạ dòng Lạc Thị lại trung hưng.
Lạc quốc không chỉ phát triển ra phía Đông ven biển mà còn lên phía Nam xưa (tức phương Bắc nay) sang vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông. Người Choang ở vùng này là dòng dõi Lạc Thị, tới giờ vẫn làm lễ tôn thờ Lạc Vương và Long Mẫu. Người Choang cùng nhóm dân tộc với người Tày Nùng ở miền Bắc Việt, nên việc thờ thần Rồng và Long Mẫu vẫn còn in đậm trong bản sắc những dân tộc này cho tới ngày nay. Thủ lĩnh Lạc Vương ở thời này đóng đô ở Dương thành tại Phiên Ngung (Quảng Đông). Giai đoạn Lạc thị Trung Hưng Hoa Hạ, mở nước về phía Đông Nam xưa được Hùng Vương Ngọc phả gọi là thời Hùng Uy Vương, triều đại Hùng Vương thứ sáu theo phả đồ.
Nhà Hạ Trung Hưng được thay thế bằng Bàn Vương trong tích Long Khuyển Bàn Hồ của người Dao. Nhóm tộc Miêu Dao là một trong những tộc người Bách Việt ở phương Nam đã làm nên nhà Thương trong lịch sử Trung Hoa. Trung tâm của giai đoạn này là vùng đất Kinh, tức là vùng Hồ Nam, phía Nam sông Dương Tử. Bàn Vương được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Huy Vương, tức là đời Hùng Vương thứ bảy theo phả đồ.
Một trong những vị Bàn Vương là vua Bàn Canh, đã thực hiện việc di dời dân chúng, tiến xa hơn về phía Nam xưa, vượt qua sông Trường Giang, lập nên nhà Thương thứ hai, gọi là nhà Ân. Các vua nhà Ân được Hùng Vương Ngọc phả gọi là Hùng Duệ Vương, chỉ thời kỳ cuối của giai đoạn Lạc Thị theo cha xuống biển.

Vào thời Hùng Duệ Vương, trên miền Bắc Việt là đất Lạc cổ xưa, có các Lạc hầu, Lạc tướng làm chủ. Sử cũ còn ghi thời kỳ này xảy ra cuộc đụng độ giữa dòng Lạc họ Hùng và dòng Thục đến từ phía Tây. Sự tranh đấu giữa 2 nhánh lên núi – xuống biển, Hùng – Thục, Âu – Lạc này bắt đầu từ thời Lạc Long Quân dựng nước, kéo dài suốt giai đoạn Lạc Thị cho tới Hùng Duệ Vương. Các sự tích ở miền Bắc Việt ghi nhận là những vị Long hầu đất Lạc đã nhiều lần chống lại các cuộc tấn công của quân Thục. Kết quả cuối cùng là vua Hùng nhường ngôi cho Thục chủ, chấm dứt thời kỳ Lạc Thị theo cha khai phá miền biển, mở ra giai đoạn lịch sử mới khi 2 dòng Âu và Lạc tái hợp và sự lên ngôi của người con theo mẹ Âu Cơ ở Phong Châu là Hùng Quốc Vương. Qua bốn ngàn năm lịch sử từ cha Rồng xuất thế nơi Đào Động, 50 người con chia trị Ngũ phương, miền sông nước Động Đình đã vươn xa hơn ra biển. Thủy quốc Long Quân còn in đậm trong tín ngưỡng Tam tứ phủ, trong tục thờ thành hoàng ở hàng trăm, hàng ngàn ngôi làng ở Bắc Bộ, trong những bản thần tích, những bài sử thi dẫn đường cho linh hồn con cháu về với tổ tiên của người Kinh, Mường, người Tày, người Dao… Lịch sử cha ông không thể nào quên. Hỡi ôi, tiền nhân bất vong!
Động Đình Long Quân ký Thoi-dai-hung-vuong

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2024

Từ nước Hán triệu ...suy ra ...

 

Hung Nô do các bộ lạc du mục liên minh hợp thành, Năm 209 TCN, tức là chỉ khoảng 3 năm trước khi nhà Hán ra đời, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của thiền vu Mặc Đốn . 
Hung Nô đã trường kỳ xung đột với người Thiên hạ ( Sử Tàu lầm lẫn gọi là Trung hoa ), theo thông tin hiện có thì dưới thời Hiếu Cao Lưu Bang lãnh thổ Hung Nô trung tâm tại vùng cao nguyên Mông Cổ, phía đông đến tỉnh Hắc Long giang ; phía nam xuống đến các tỉnh Hà Bắc, Sơn tây, và vùng Hà Khoá tức cực bắc sông Hoàng Hà , về phía tây giới hạn tại núi Ha Nhĩ Thái Sơn thuộc tỉnh Tân Cương hiện nay .
Cùng thời thì Lãnh thổ của Thiên hạ như sau : .
Xin trích một đoạn trong Sách Lộ Sử của La Bí đời Tống.viết về tộc người Thiên hạ thời Đông Hán cai trị :
 “Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu .
Lạc dương trong đoạn sử này là thủ đô của Đông hãn quốc tức nước Quan của hãn Quan vũ .

Bằng 2 đoạn tin ta đã có thể vẽ ra địa vực và ranh giới sinh tồn của 2 dòng tộc từ thời thượng cổ , sự dịch chuyển mạnh mẽ lớn lao cư dân 2 vủng chỉ diễn ra từ thời Tào tháo di dân lập đồn điền ở An huy nước Ngụy thời Tam quốc và mạnh hơn nữa là ở trung đại và cận đại kết qủa những cuộc chiến xâm lược của ngũ Hồ .
Ranh giới chia Rợ và dòng giống Hùng được củng cố thêm bằng bằng chứng nhân chủng và tiên tiến nhất là DNA, Đại đa số rợ Hung nô thuộc về loại hình nhân chủng Mongoloid còn người họ Hùng thuộc vào chủng Nam Mongoloid khác hẳn nhau .
Hán Triệu  là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn (265-316), đầu nhà Đông Tấn (316-420). quốc này cũng có tên khác là Hung Nô Hán và Hồ Hán kiến lập bởi Lưu Uyên ,ông ta tên tự là Nguyên Hải  thụy hiệu Hán Quang Văn Đế ,chính 2 quốc hiệu ‘ấm ớ’ Hung nô Hán và Hồ Hán đã chỉ ra : Hung nô thiết Hồ nên Hán Hung nô và Hồ chỉ là một giống.
Là hậu duệ của thiền vu Hung nô lừng danh Mao Dun , năm 309 Đại Thiền vu Lưu Uyên chán đánh thuê cho các vương nhà Tấn thời loạn Bát vương . để có thể chuyển dòng Lịch sử và văn minh đám du mục Bắc Hoàng hà Lưu Uyên đã thuyết phục các tộc trưởng cầm đầu các đoàn trại du mục Hung nô là bản thân ông cũng có thể đọc được Tứ thư – Ngũ kinh như người họ Hùng sao lại không thể làm hoàng đế của Thiên hạ , được ủng hộ Lưu Uyên đã trở thành hoàng đế kiến lập nước Hán trên đất Sơn Tây – Thiểm Tây ngày nay để phân biệt với các nước Hán khác sử gọi là Hán Triệu , chính lời thuyết phục các trưởng lão Hung nô của Lưu Uyên đã ‘ thành thật khai báo’ Tứ thư Ngũ kinh không phải là tác phẩm của người Hồ Hán và không được viết bằng Hán văn .
Mập mờ đánh lận con Đen tráo đổi lịch sử người Hán đã dùng chiêu …tráo chữ đổi nghĩa :
Sử thuyết Hùng Việt đã nhận ra trong Hán sử các từ Thiền Vu , Đầu Man và Mạo Đốn chỉ là xảo thuật chữ nghĩa ; Thiền vu thực ra đọc lái đi là ‘thù viên’ nghĩa là ‘chúa đối địch’, Đầu Man nguyên văn tiếng Việt chỉ ‘kẻ cầm đầu đám rợ man’ và Mao Dun hay Mạo đốn là phiên thiết cuả Mun – man hay Mán .
…Lưu Uyên thuộc về dòng dõi của vị công chúa mà Hiếu cao tổ Lưu Bang gả cho thiền vu Hung nô năm xưa nên đã lấy họ Lưu của Lưu Bang làm họ và tự coi mình là người kế tục về mặt huyết thống của hoàng tộc Tây Hán .
Có đúng thế không ? .Tưởng là có thể lừa Thiên hạ biết đâu rằng người ta thấy ngay …chỉ là con của công chúa tức cháu ngoại của vua thì làm gì được mang họ Lưu của Hiếu Cao tổ ?, có chăng chỉ có thể họ Lưu của Hoàng tộc Hán Triệu là tiếp nối họ tộc của Lưu Huyền hay Lưu Tú 2 hoàng đế tướng cướp Lục lâm thảo khấu mà thôi .
Chính tên tự Nguyên Hải và hiệu Hán Quang đế đã khai ra dòng dõi đích thực của Lưu Uyên . Từ Nguyên trong tên Nguyên Hải đã xác nhận gốc gác Mông cổ của Lưu Uyên đặc biệt Thuỵ hiệu Hán quang văn đế đã chỉ ra Lưu Uyên chính là hậu nhân của Hán Quang vũ đế vua Đông Hán thời trước ,
Sử thuyết Hùng Việt cho là … lịch sử không hề có nước Quang nghĩa là sáng mà chỉ có nước Quan dịch chữ nom – nhìn của Việt ngữ , Nom – Nam chỉ Quan phương tức phương Nam xưa , Quan vũ là vua nước ở về phía Nam so với đất Giữa hay Giao chỉ , mãi cho đến nay tiếng nói vùng Bắc kinh vẫn gọi là Quan thoại . quan thọai nghĩa là tiếng nói người phương Nam chứ đâu phải quan quyền gì như người Tàu nói .
Cuộc đụng độ giữa Lưu Bang – Lí Bôn và Thiền vu Mao dun là cuộc đụng độ giữa 2 tộc người , đụng độ giữa 2 nền văn hóa , có thể nói là đụng độ 2 kẻ thù không đội trời chung vì thế một khi Lưu Uyên đã là con cháu Thiền vu Mao Dun thì không thể nào là người thuộc dòng dõi của Lưu Bang – Lí Bôn .
Lưu Bang và Sở bá vương Hạng vũ đều là người nước Sở , cùng phò Sở Hoài vương chông Tần . lãnh thổ nước Sở xưa thuộc Kinh châu nay ở Hồ Nam , nơi này đại đa số dân cư vẫn là người Miêu và Thổ gia thì làm gì có con cháu giống Hung nô ở đấy .
Tóm lại sử thuyết Hùng Việt cho là trong lịch sử loài người có tới 2 Hán tộc hoàn toàn khác , 2 tộc này đã bị ai đó cố tình trộn lẫn mập mờ đánh lận con đen nhằm tráo đổi lịch sử và nền văn minh của người họ Hùng .

  • Hưng quốc vua họ Lý .
    Lịch sử Thiên hạ có thời gọi là Hán – Sở tranh hùng nói về cuộc chiến hậu Tần giữa Lưu Bang và Hạng Vũ , Hán Sở chẳng mang nghĩa gì mà đích thực đó là cặp từ lưỡng lập trong văn minh Dịch lí .
    Hên – Sui . Hơn – thua hay Hưng – Suy
    Vì Lưu Bang sử Việt là Lý Bôn thắng nên gọi là Hên hay Hơn hay Hưng đế ,nước củ Hưng đế là Hưng quốc hay Đại Hưng quốc người Tàu đã biến Hưng Hơn Hên ra Hán quốc như đã thấy . ,
    Họ cũng biến họ Lý – Lửa của Lý Bôn thành họ Lưu – Lu của Lưu Bang
  • Hãn quốc của Thiền vu Hung nô .
    Rợ Hung nô hay Hồ gọi chúa của họ là Khan , tiếng Tàu độc âm hoá thành Hãn , nước của hãn là hãn quốc , quân của hãn là hãn quân , sử gia Trung quốc sau cũng đã biến ‘Hãn’ tương đương với ‘vương’danh từ chung thành ra Hán danh từ riêng chỉ tên nước , tên tộc của các đấng con nhà trời.
    Kể ra sự bịp lừa thô thiển này cũng khá hiệu qủa , mãi tới nay rất đông gười trong Thiên hạ vẫn ù ù …cạc cạc lẫn lộn con cháu Tam hoàng Ngũ đế với hậu duệ thiền vu Đàu Man và Mao dun .
    Thực ra nếu mọi người bình tĩnh sáng suốt 1 chút …thì sự việc đâu có lầm lẫn tệ hại đến vậy.
  • Chẳng hạn Như với nước Đông Hán , sử Tàu viết tính ra  Lưu Tú - Hán Thế tổ chúa Đông Hán là con cháu đời thứ 9 của Lưu Bang - Hán cao tổ vì thế nước của ông ta xem như đương nhiên  tiếp nối quốc thống  Tây Hán , Đông Hán đương nhiên thừa hưởng gia tài và là chủ nhân của nền văn minh  Hán tộc .
  • Thử hỏi nếu thực như thế thì Thủ lãnh Phàn Sùng và quân nổi dậy Xích My sao không tôn phò quách Lưu Tú làm thủ lãnh khạ́ng chiến  cho rồi  đâu phải bỏ bao công sức  tìm dòng dõi của Lưu Bang Hán cao tổ để sau cùng mới tìm được đứa bé 15 tuổi đang chăn bò tên là Lưu Bồn tử con cháu Lưu Bang  tôn làm KIến thế đ̣ế  , sự thực tên gọi lưu bồn tử chỉ là trò chơi chữ nghĩa của sử gia Hán tộc , chính xác ra phải viết là lý Bôn tử nghĩa là  con cháu của Lý Bôn .
  • Rõ như thế người ta biết ngay Đông Hán và Tây Hán là 2 dòng giống ̉ khác biệt không hề có việc tiếp nối giữa đông và Tây Hán
  •  Với Lãnh thổ quốc gia ở  vùng Sơn Tây Hà Bắc ngày nay thì rõ ràng các nước   : 

    phụ quốc Quan thời Thương Ân , nước Đông Hán , nước Hán Triệu và sau nữa là nước Liêu - Kim  chỉ  là một và  đó chính là cái gốc  của Trung quốc ngày nay . 

    Người Trung quốc chẳng có liên hệ gì với Tam Hoàng Ngũ để , chữ Nho và Tứ Thư Ngũ Kinh cũng chẳng dính dáng gì đến Rợ Hung Nô , đương nhiên xa lạ với nền văn minh ...Ngựa  .

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2024

Vài dòng ...Việt sử bình dân - phần I

 

Theo tư liệu lịch sử thì Tiên nhân người Việt lập quốc khỏang 5000 năm cách nay trên mảnh đất giới hạn phía Tây là sông Mê kong phía đông là biển Đông Xưa là Động đình hồ nay là vịnh Bắc bộ , phía Bắc (nay) giới hạn bởi Châu

giang hay sông Tứ và phía Nam ( ngày nay) là biển .

Xin nói rõ quan điểm của người viết là giới ḥạn thời gian và không gian như thế không có nghĩa là ngoài khung không thời gian này mặt đất không có người nào khác , không có tộc người hay quốc gia khác ...,mà thực ra đơn giản chỉ là người hoặc những nước có thể có đó thuộc về 1 lịch sử khác , 1 nền văn minh khác không nằm trong khuôn khổ khảo luận này .

Tư liệu cổ sử hiện có đã viết lịch sử theo ý niệm tiên khởi duy ngã độc tôn , trời đất duy nhất chỉ có 1 mình ta ,1 nước ta ,1 họ nhà ta nên các địa danh và nhân danh trong tư liệu cổ thường là những từ chung nói đến ...những gì của ta.duy nhất có , về sau giới viết sử mới dần dần biến thành tên riêng hay hiệu của 1 sự thể như người , đất hay 1 triều đại cụ thể . Vương tổ kiến lập vương quốc gọi chung chung gọi là …, ông Vũ , vương kiến lập triều Thương và Thương Ân là Võ vương , kiến lập nhà Châu là Châu Vũ vương , Sao lắm ông vũ vậy ? , thực ra vũ chỉ là từ chung biến âm của ‘vua’ tiếng Việt nên có bao nhiêu triều thì có bấy nhiêu ông VŨ .

Cá biệt chỉ có từ ‘ nước’ diễn biến ngược lại ; từ tên riêng quốc gia của người Việt cổ là Lạc – Nác – Nước , tên chữ là ‘Xích qủy’ (xích qủy hay thích qủy thiết thủy) trở thành danh từ chung ‘nước’ gọi mọi quốc gia trong tiếng Việt .

Lãnh thổ nước ‘ta’ tên ban đầu đơn gỉan chỉ gọi là ‘Chỗ Giữa’ theo quan niệm duy ngã , viết bằng chữ Nho đảo lại là ‘giữa chỗ’ rồi biến thành ‘Giao chỉ’, đơn giản ‘Giao chỉ’ nghĩa là phần đất ở chính giữa 4 phương Nam Bắc Tây Đông , Về mặt chữ nghĩa Giao chỉ hoàn toàn không phải là ‘Nam Giao’, Nam Giao nghĩa là đất phía Nam Trung quốc như người Tàu cố giải thích nhằm xóa đi gốc tích người Việt , đích xác địa danh Nam giao trong Kinh Thư đầy đủ phải là ‘Nam Giao chỉ’ tức phía Nam ‘chỗ Giữa’ là vùng đất mà tổ tiên người Việt mới khai phá từ ‘chỗ giữa’mở rộng thêm lãnh thổ về phía Nam xưa theo Dịch học (nay Bắc Nam đã lộn ngược) . Nam giao sau trở thành vùng Lĩnh Nam hay Nam lĩnh , Nam lĩnh hợp với Hồng lĩnh và Ngũ lĩnh thành ra 3 miền của địa lí bộ Giao chỉ hay Giao chỉ bộ .

Cổ sử Thiên hạ chép : bộ tộc của Hiên Viên Hoàng đế trước sống ở vùng sông Khương sau dời đến sông Cơ .

Sông Khương thời nhà Nguyễn người Việt gọi là Khung giang , Khung và Khương là 1 ngày nay là sông Mê kong – Cửu long.

Sông Cơ chính xác là sông Cả , Việt ngữ có từ kép cao - cả đã được vận dụng vào lịch sử chỉ thủ lãnh vua chúa , rõ ràng hơn nữa sông Cơ là con sông đánh dấu nơi đế Hoàng lập quốc , Cơ chính là họ của đế Hoàng – vua màu vàng , sông Cả cũng gọi là sông Lam ở Nghệ an Việt nam , sông Lam là cách gọi không chính xác , đúng ra là sông Lang , sông thủ lãnh , người Lảo gọi là nậm Khan nậm là sông , khan nghĩa tiếng Việt là vua – chúa . Cơ cũng là họ của các vua nhà Châu .

Sử thuyết Hùng Việt đọc dòng sử trên bằng Nôm văn và đối sánh với những thông tin khác :

Từ Hoàng đế nghĩa là ông vua thì sau lâu lắm tới thời Tần thủy hoàng mới có , Còn Hoàng đế ở sông Cơ là đế Hoàng vua mảu Vàng , đây là khái niệm vận dụng của Ngũ hành Dịch học , Vàng là sắc của Trung tâm trong ngũ sắc , nói Hoàng đế - đế Hoàng là vua đất Giao chỉ - chỗ giữa là 1 bộ , đất Giữa của vua Giữa là hợp lẽ ‘tự nhiên’ .

Vàng cũng đọc là Woòng biến âm thành > vương hay hoàng trong văn minh Thiên hạ .

Trong Cổ sử Việt có Hùng Vũ vương cũng gọi là Hiền lang , lang là từ đồng nghĩa với vương , Hiền lang chính là Hiền vương kí âm sai đi thành Hiên Viên bên sử Trung hoa .

Tư liệu Trung hoa viết Đế Hoàng tên là Ngu còn Hùng phả Việt nam có Hùng Vũ vương – Hiền lang , sử thuyết Hùng Việt cho Ngu và Vũ đều là biến âm của từ ‘vua’ tiếng Việt .

Hùng Vũ vương quốc tổ của dân tộc Việt chính là Hiên viên Hoàng đế tổ của Viêm - Hoàng tử tôn tức người Trung Hoa . Hoàng đế - đế màu Vàng là người đã kiến lập ‘Hữu Hùng quốc’ tức nước hay quốc gia của người họ Hùng , khi chưa lập ngôi đế Hoàng đế có danh hiệu là Thái Công , tổ phụ ở Chính Giữa cũng là sau cùng của dòng tộc tiếp nối 4 tổ phụ trước ở 4 phương :Thái Cao vua Cả Phục Hy ở phương Đông , Thái Viêm Thần Nông phương Xích ̣đạo , Thái Khang Thiếu Hạo phương Tây và Thái Tiết hay Tiếp cũng gọi là Tiên đế Xuyên Húc phương Nam (xưa nay là Bắc) của dòng giống Hùng trước khi trở thành 1 dân tộc .

Thông tin cổ sử Việt và Hoa rất rõ . khi lập quốc trở thành 1 dân tộc khoảng 5000 năm trước thì đại tộc Hùng là sự hợp nhất dòng máu và văn hóa văn minh của người ở 4 phương 8 hướng con dân của các đế : đế Hoàng . Đế Viêm ; Xi vưu đợt đầu , đợt sau hợp nhất với bộ tộc Hoan dâu dòng dõi Xuyên Húc thành ra Nam bang , chính quyền gọi là Nam triều , sau nữa các vua Nghiêu Thuấn của Nam triều mở rộng lãnh thổ về phía Nam xưa , nước ta có thêm Nam Giao hay Nam Giao chỉ về sau sử gọi là đất Quảng , châu Quảng , Quảng nghĩa là ‘mở rộng’ ra . đất Giao chỉ cộng với Nam Giao thành ra bộ Giao chỉ của Thiên hạ .

Có chuyện thật là lạ ; cổ sử Việt nói rất rõ về 18 đời Hùng vương nhưng không có dòng nào nói đến Hùng quốc trong khi cổ sử Trung hoa kể vanh vách ... chuyện Hoàng đế kiến lập Hữu Hùng quốc nhưng sau đó quên luôn chẳng nói gì đến 1 vị Hùng vương nào cả .

Đế Hoàng lui về và mất ở đất Đào sau khi truyền ngôi cho vua Nghiêu , vua Nghiêu định đô ở đất Đường từ đó Thiên hạ có Nam triều hay Nam bang ở thời cổ sử gọi là thời Đào Đường thị kế sau thời Hữu Hùng thị .

Các vương Nam triều cách gọi khác là Kinh dương vương , từ Kinh này chính là từ chỉ người Kinh hiện nay ,

Kinh dương vương thứ I là đế Nghi hay đế đường Nghiêu , đế Nghiêu trước khi lên ngôi đế là Đường vương hay đường hầu , Việt sử bình dân ghi là ông Giao Thường . Đường chính xác là Thường , từ thường trong nền văn hóa văn minh Dịch học mang nghĩa là thường thường , bình thường , cũng là thường dân hay dân Đen nằm ở hướng đối phản với cao qúy - cao cả của vua chúa qúy tộc hướng Xích đạo .

Kinh dương Vương thứ II là Ngu Thuấn tên dân gian là Diêu trọng Hoá tức Giao hóa , Diêu chính là Giao là Giữa .

Kinh dương Vương thứ III là Vua Lớn - Đại Vũ tên dân gian là ông Cao Mật , mật là biến âm của Một .

Cổ sử viết … vua Nghiêu Thuấn thời Nam triều đã phong ông Cổn làm chúa nước Sùng hiệu là Sùng bá Cổn , và giao cho ông nhiệm vụ trị thủy nhưng ông đã thất bại , phải đến đời sau con ông là ông Vũ mới thành công chấm dứt cơn hồng thủy , ông Vũ đã đục bỏ cả 1 nửa ngọn Long môn sơn cho nước thoát chảy , long môn là cửa nước sông Đà thoát chảy khỏi miền trung du xuống đồng bằng Bắc bộ , sông Đà còn tên khác là Hắc thủy đúng với tên con sông nơi ông Vũ trị thủy . Nhiều tư liệu lịch sử Việt và Hoa hiện có đã xác nhận Hắc thủy chính là sông Đà ở Việt nam chảy từ Vân nam ra biển Nam hải, Long môn hay Vũ môn nơi cá chép nếu vượt được sẽ hoá rồng là thác Bờ ngày nay , địa danh thác Bờ rất có thể là do thác bố biến ra .

Ngoài Thác Bờ sông Đà ông Đại Vũ - vua lớn còn 2 dấu tích khác ở Giao chĩ và Lĩnh Nam .

Sử chép đại Vũ lấy vợ là Đồ Sơn thị và cũng có lần hội chư hầu ở đây , sử thuyết Hùng Việt cho địa danh Đồ sơn xa xưa nay vẫn là Đồ sơn ở Hải phòng Việt nam .

Dấu tích thứ 2 của ông đại Vũ còn lại là núi Cối kê ở Triết giang Trung quốc nay ,Cối kê là nơi hội chư hầu lần thứ 2 cũng là nơi Đại Vũ mất và có đền thờ ông .

Kế nghiệp vua lớn – đại Vũ là đế Khải , đế khải đã kiến lập vương triều Hạ là triều đầu trong Tam đại Trung hoa , dấu vết nhà Hạ còn nhiều như tên gọi vịnh Lan Hạ ở biển Hải phòng mà chính xác ra phải viết là vịnh Lang Hạ tức nói đến đế Khải - Hạ Vũ , ngoài ra rất rõ ràng là Dương thành thủ đô vươmg triều Hạ nay là Dương thành ở Quảng châu tỉnh . Quảng Đông , đặc biệt hơn nữa cư dân chính của kinh đô nhà Hạ chính là người Hẹ nay vẫn sống trên chính quê cha đất tổ mà không biết . Hẹ và Hè - Hạ chỉ là một chỉ phát âm khác đi mà thôi .

Đối sánh thông tin với đoạn sử viết ông Tây bá hầu Cơ Xương đã hợp nhất đất phía Tây với đất của Sùng bá làm thành đất trung tâm Thiên hạ nhà Châu thì nhận ra nước do Tây bá Cơ xương lập nên chính là nước Văn lang hay Âu Lạc của cổ sử Việt ..mà lãnh thổ Bắc giáp động đình hồ Tây giáp Thục , phía Đông giáp Nam Hải tức Quảng Đông và Nam giáp nước Hồ Tôn là Cham pa sau này


Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2024

Bỏ quê hương

 

Tay ngửa xin tiền mặt cúi xuống

Ngậm đắng nuốt cay thế phải thời

Thân xác cha máu đào thấ́́m đẫm

Quê hương tan nát tự lúc nào

Nước mắt mẹ khóc tràn sông suối

Con cô đơn ...lực bất tòng tâm

Thân Mãnh hổ quần hồ nan địch

Vận nước bỉ sức cùng lực kiệt

Đành biệt mẹ cha bước chân đi

Ngày mai ra sao con nào biết

Thôi thì...

Sống ở nơi nao , đấy là nhà .