Thứ Ba, 24 tháng 12, 2024

Từ nước Hán triệu ...suy ra ...

 

Hung Nô do các bộ lạc du mục liên minh hợp thành, Năm 209 TCN, tức là chỉ khoảng 3 năm trước khi nhà Hán ra đời, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền của thiền vu Mặc Đốn . 
Hung Nô đã trường kỳ xung đột với người Thiên hạ ( Sử Tàu lầm lẫn gọi là Trung hoa ), theo thông tin hiện có thì dưới thời Hiếu Cao Lưu Bang lãnh thổ Hung Nô trung tâm tại vùng cao nguyên Mông Cổ, phía đông đến tỉnh Hắc Long giang ; phía nam xuống đến các tỉnh Hà Bắc, Sơn tây, và vùng Hà Khoá tức cực bắc sông Hoàng Hà , về phía tây giới hạn tại núi Ha Nhĩ Thái Sơn thuộc tỉnh Tân Cương hiện nay .
Cùng thời thì Lãnh thổ của Thiên hạ như sau : .
Xin trích một đoạn trong Sách Lộ Sử của La Bí đời Tống.viết về tộc người Thiên hạ thời Đông Hán cai trị :
 “Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu .
Lạc dương trong đoạn sử này là thủ đô của Đông hãn quốc tức nước Quan của hãn Quan vũ .

Bằng 2 đoạn tin ta đã có thể vẽ ra địa vực và ranh giới sinh tồn của 2 dòng tộc từ thời thượng cổ , sự dịch chuyển mạnh mẽ lớn lao cư dân 2 vủng chỉ diễn ra từ thời Tào tháo di dân lập đồn điền ở An huy nước Ngụy thời Tam quốc và mạnh hơn nữa là ở trung đại và cận đại kết qủa những cuộc chiến xâm lược của ngũ Hồ .
Ranh giới chia Rợ và dòng giống Hùng được củng cố thêm bằng bằng chứng nhân chủng và tiên tiến nhất là DNA, Đại đa số rợ Hung nô thuộc về loại hình nhân chủng Mongoloid còn người họ Hùng thuộc vào chủng Nam Mongoloid khác hẳn nhau .
Hán Triệu  là một tiểu quốc trong thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc vào cuối thời kỳ nhà Tây Tấn (265-316), đầu nhà Đông Tấn (316-420). quốc này cũng có tên khác là Hung Nô Hán và Hồ Hán kiến lập bởi Lưu Uyên ,ông ta tên tự là Nguyên Hải  thụy hiệu Hán Quang Văn Đế ,chính 2 quốc hiệu ‘ấm ớ’ Hung nô Hán và Hồ Hán đã chỉ ra : Hung nô thiết Hồ nên Hán Hung nô và Hồ chỉ là một giống.
Là hậu duệ của thiền vu Hung nô lừng danh Mao Dun , năm 309 Đại Thiền vu Lưu Uyên chán đánh thuê cho các vương nhà Tấn thời loạn Bát vương . để có thể chuyển dòng Lịch sử và văn minh đám du mục Bắc Hoàng hà Lưu Uyên đã thuyết phục các tộc trưởng cầm đầu các đoàn trại du mục Hung nô là bản thân ông cũng có thể đọc được Tứ thư – Ngũ kinh như người họ Hùng sao lại không thể làm hoàng đế của Thiên hạ , được ủng hộ Lưu Uyên đã trở thành hoàng đế kiến lập nước Hán trên đất Sơn Tây – Thiểm Tây ngày nay để phân biệt với các nước Hán khác sử gọi là Hán Triệu , chính lời thuyết phục các trưởng lão Hung nô của Lưu Uyên đã ‘ thành thật khai báo’ Tứ thư Ngũ kinh không phải là tác phẩm của người Hồ Hán và không được viết bằng Hán văn .
Mập mờ đánh lận con Đen tráo đổi lịch sử người Hán đã dùng chiêu …tráo chữ đổi nghĩa :
Sử thuyết Hùng Việt đã nhận ra trong Hán sử các từ Thiền Vu , Đầu Man và Mạo Đốn chỉ là xảo thuật chữ nghĩa ; Thiền vu thực ra đọc lái đi là ‘thù viên’ nghĩa là ‘chúa đối địch’, Đầu Man nguyên văn tiếng Việt chỉ ‘kẻ cầm đầu đám rợ man’ và Mao Dun hay Mạo đốn là phiên thiết cuả Mun – man hay Mán .
…Lưu Uyên thuộc về dòng dõi của vị công chúa mà Hiếu cao tổ Lưu Bang gả cho thiền vu Hung nô năm xưa nên đã lấy họ Lưu của Lưu Bang làm họ và tự coi mình là người kế tục về mặt huyết thống của hoàng tộc Tây Hán .
Có đúng thế không ? .Tưởng là có thể lừa Thiên hạ biết đâu rằng người ta thấy ngay …chỉ là con của công chúa tức cháu ngoại của vua thì làm gì được mang họ Lưu của Hiếu Cao tổ ?, có chăng chỉ có thể họ Lưu của Hoàng tộc Hán Triệu là tiếp nối họ tộc của Lưu Huyền hay Lưu Tú 2 hoàng đế tướng cướp Lục lâm thảo khấu mà thôi .
Chính tên tự Nguyên Hải và hiệu Hán Quang đế đã khai ra dòng dõi đích thực của Lưu Uyên . Từ Nguyên trong tên Nguyên Hải đã xác nhận gốc gác Mông cổ của Lưu Uyên đặc biệt Thuỵ hiệu Hán quang văn đế đã chỉ ra Lưu Uyên chính là hậu nhân của Hán Quang vũ đế vua Đông Hán thời trước ,
Sử thuyết Hùng Việt cho là … lịch sử không hề có nước Quang nghĩa là sáng mà chỉ có nước Quan dịch chữ nom – nhìn của Việt ngữ , Nom – Nam chỉ Quan phương tức phương Nam xưa , Quan vũ là vua nước ở về phía Nam so với đất Giữa hay Giao chỉ , mãi cho đến nay tiếng nói vùng Bắc kinh vẫn gọi là Quan thoại . quan thọai nghĩa là tiếng nói người phương Nam chứ đâu phải quan quyền gì như người Tàu nói .
Cuộc đụng độ giữa Lưu Bang – Lí Bôn và Thiền vu Mao dun là cuộc đụng độ giữa 2 tộc người , đụng độ giữa 2 nền văn hóa , có thể nói là đụng độ 2 kẻ thù không đội trời chung vì thế một khi Lưu Uyên đã là con cháu Thiền vu Mao Dun thì không thể nào là người thuộc dòng dõi của Lưu Bang – Lí Bôn .
Lưu Bang và Sở bá vương Hạng vũ đều là người nước Sở , cùng phò Sở Hoài vương chông Tần . lãnh thổ nước Sở xưa thuộc Kinh châu nay ở Hồ Nam , nơi này đại đa số dân cư vẫn là người Miêu và Thổ gia thì làm gì có con cháu giống Hung nô ở đấy .
Tóm lại sử thuyết Hùng Việt cho là trong lịch sử loài người có tới 2 Hán tộc hoàn toàn khác , 2 tộc này đã bị ai đó cố tình trộn lẫn mập mờ đánh lận con đen nhằm tráo đổi lịch sử và nền văn minh của người họ Hùng .

  • Hưng quốc vua họ Lý .
    Lịch sử Thiên hạ có thời gọi là Hán – Sở tranh hùng nói về cuộc chiến hậu Tần giữa Lưu Bang và Hạng Vũ , Hán Sở chẳng mang nghĩa gì mà đích thực đó là cặp từ lưỡng lập trong văn minh Dịch lí .
    Hên – Sui . Hơn – thua hay Hưng – Suy
    Vì Lưu Bang sử Việt là Lý Bôn thắng nên gọi là Hên hay Hơn hay Hưng đế ,nước củ Hưng đế là Hưng quốc hay Đại Hưng quốc người Tàu đã biến Hưng Hơn Hên ra Hán quốc như đã thấy . ,
    Họ cũng biến họ Lý – Lửa của Lý Bôn thành họ Lưu – Lu của Lưu Bang
  • Hãn quốc của Thiền vu Hung nô .
    Rợ Hung nô hay Hồ gọi chúa của họ là Khan , tiếng Tàu độc âm hoá thành Hãn , nước của hãn là hãn quốc , quân của hãn là hãn quân , sử gia Trung quốc sau cũng đã biến ‘Hãn’ tương đương với ‘vương’danh từ chung thành ra Hán danh từ riêng chỉ tên nước , tên tộc của các đấng con nhà trời.
    Kể ra sự bịp lừa thô thiển này cũng khá hiệu qủa , mãi tới nay rất đông gười trong Thiên hạ vẫn ù ù …cạc cạc lẫn lộn con cháu Tam hoàng Ngũ đế với hậu duệ thiền vu Đàu Man và Mao dun .
    Thực ra nếu mọi người bình tĩnh sáng suốt 1 chút …thì sự việc đâu có lầm lẫn tệ hại đến vậy.
  • Chẳng hạn Như với nước Đông Hán , sử Tàu viết tính ra  Lưu Tú - Hán Thế tổ chúa Đông Hán là con cháu đời thứ 9 của Lưu Bang - Hán cao tổ vì thế nước của ông ta xem như đương nhiên  tiếp nối quốc thống  Tây Hán , Đông Hán đương nhiên thừa hưởng gia tài và là chủ nhân của nền văn minh  Hán tộc .
  • Thử hỏi nếu thực như thế thì Thủ lãnh Phàn Sùng và quân nổi dậy Xích My sao không tôn phò quách Lưu Tú làm thủ lãnh khạ́ng chiến  cho rồi  đâu phải bỏ bao công sức  tìm dòng dõi của Lưu Bang Hán cao tổ để sau cùng mới tìm được đứa bé 15 tuổi đang chăn bò tên là Lưu Bồn tử con cháu Lưu Bang  tôn làm KIến thế đ̣ế  , sự thực tên gọi lưu bồn tử chỉ là trò chơi chữ nghĩa của sử gia Hán tộc , chính xác ra phải viết là lý Bôn tử nghĩa là  con cháu của Lý Bôn .
  • Rõ như thế người ta biết ngay Đông Hán và Tây Hán là 2 dòng giống ̉ khác biệt không hề có việc tiếp nối giữa đông và Tây Hán
  •  Với Lãnh thổ quốc gia ở  vùng Sơn Tây Hà Bắc ngày nay thì rõ ràng các nước   : 

    phụ quốc Quan thời Thương Ân , nước Đông Hán , nước Hán Triệu và sau nữa là nước Liêu - Kim  chỉ  là một và  đó chính là cái gốc  của Trung quốc ngày nay . 

    Người Trung quốc chẳng có liên hệ gì với Tam Hoàng Ngũ để , chữ Nho và Tứ Thư Ngũ Kinh cũng chẳng dính dáng gì đến Rợ Hung Nô , đương nhiên xa lạ với nền văn minh ...Ngựa  .

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét