Nam chiếu là kí âm Hán văn của Nam chúa , Nam chủ tiếng Việt , là Chậu của tiếng Thái Lào .
Hiện nay đang có nhiều luồng thông tin về Lịch sử Nam chúa .
" Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan tiết độ sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả sáu chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Quy Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn... Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông quốc rồi lại đổi là Đại Lễ... "
*- Nam chiếu - Bố cái đại vương của sử Việt
Sau khi đánh bại quân nhà Đường Phùg hưng kiến lập Nam bang định đô ở Phong thành được dân chúng tôn là Bố Cái đại vương , đền thờ Phùng Hưng có câu đối :
Phong thành phủ lỵ thái Nam bang ...
Khởi nghĩa Mai Hắc đế là lần đầu tiên trong lịch sử liên minh dân tộc Đông nam ́Ạ́ hợp sức kiến lập 1 quốc gia . Hắc đế trong ngôn ngữ Dịch học chính là Nam chúa viết sai thành Nam chiếu . triệu và chiếu chỉ là kí âm chữ Nho của chủ và chúa , Hắc là màu Đen tượng của phương Nam trong Ngũ sắc , về vật chất là Nước , trong Thập can là 6 nút thắt .
* - Thông tin : Nam chiếu - Khun borom của người Thái - Lào .
Nam chiếu đã đạt đến độ cực thịnh vào năm 860 khi ôm gọn vùng Vân Nam ngày nay, giáp với đông nam của Quý Châu, Tây Tạng, Tứ Xuyên; tây bắc của Việt Nam và chính bắc của Lào và Miến Điện.
Lí lang là thủ lãnh họ Lí , lang là long – rồng cũng nghĩa là thủ lãnh .Triệu ông Lí cũng là chúa hay thủ lãnh họ Lí
Lí Lang chính là Triệu ông Lí . ông Lí là cách gọi kính trọng người mang họ Lí , từ Triệu ở đây không phải là họ mà là biến âm của ;chậu; ngôn ngữ Thái – Lào , chủ – chúa tiếng Việt .
Lí lang là thủ lãnh họ Lí , lang là long – rồng cũng nghĩa là thủ lãnh .Triệu ông Lí cũng là chúa hay thủ lãnh họ Lí
Tới đây xem chừng đã có được sự nối kết giữa nhân vật Triệu ông Lí và Lí Lang – Phùng Hưng của sừ Việt , song song cùng sự nối kết Phùng Hưng – Bố Cái với Bì La Các vua phục sinh Nam Chiếu , như thế đã có thể khẳng định nước Nam Chiếu khởi lập và phục sinh trên đất Tây bắc Việt và Thượng lào phía Tây Nhị hà hay Hồng hà không phải tây hồ Nhĩ hải như sách Tàu viết .
Xem ra lịch sử Nam chiếu thực sự là 1 chương của lịch sử Việt Nam .
Nhận định này đã giúp nhận ra ý nghĩa trong thông tin khó hiểu trong Nam Chiếu truyện sách Lĩnh Nam trích quái ; …
Nam Chiếu đem châu báu ngà ngọc hiến cho nước Tây Bà Dạ (cũng là Tây đồ Di hậu thân của nước Tề thời nhà Châu ?), xin chỗ sinh sống ở vùng đất trống ven bờ biển. Khi ấy nước Tây Bà Dạ chia đều đất ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Qúy châu dưới tới Diễn Châu gọi là lộ Lâm An ., từ Hoan Châu đổ về phía nam gọi là lộ Như Hoàn.
Theo Phan Huy Chú, phủ Lâm An vốn trước là đất của Bồn Man nằm ở phía Tây Nghệ An sau nhập vào đại Việt đặt thành trấn Ninh và trấn Tĩnh , nay là đất của Lào ,
Trong lịch sử Nam Chiếu không thấy ghi chép gì về sự kiện chia đất nhưng khi nhìn nhận Bì La Các cũng là Bố Cái đại vương thì rõ .
Lâm an còn vết tích rõ ràng cả ở Ta lẫn bên Tàu .
.* - Phủ Lâm An bên Tàu nằm ở phía nam tỉnh Vân Nam, phía tây là phủ Tư Mao, phía tây bắc là phủ Nguyên Giang, phía đông tiếp giáp với phủ Khai Hóa (開化) đều thuộc tỉnh, phía nam tiếp giáp với trấn (tỉnh) Hưng Hóa của Đại Việt, sau là Đại Nam (Việt Nam). Địa bàn phủ Lâm An ngày nay là khoảng khu vực châu tự trị Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.
Phía tây nam lộ Lâm An là sông Nguyên Giang (元江, sông này chảy sang Việt Nam gọi là Hồng Hà (紅河)). Bờ tây nam sông Nguyên Giang chính là vùng đất “Giang ngoại” được đặt làm lộ Hòa Nê (和泥路) quản lý các bộ lạc Nạp Lâu (納樓), Trà Điện(茶甸).
Khi Phùng Hưng mất quần thần Nam chía chia thành 2 phe ,
Phe theo mẫu hệ tức các châu KIMI thuộc phủ đô hộ An Nam theo mẫu hệ nên cho Phùng Hải em Phùng Hưng là người kệ́ vị anh .
Phe các châu Ki Mi thuộc phủ đô hộ Phong châu theo phụ hệ do Bồ phá Lạc cầm đầu nhất định tôn Phùng An con Phùng Hưng lên ngôi .
Thế là Nam Chúa chia thành 2 nước :
Nam Chiếu của Phùng An đất từ Qúy châu đến Diễn châu là lộ Lâm An ; tư liệu viết Phùng Hải ….chạy về đất Chu nham , chu nham thiết Cham- chàm chính là lộ Như Hoàn trong truyện Nam Chiếu sau là nước Hoàn vương và sau nữa là nước Chiêm thành . (Sử thuyết Hùng Việt cho An – Ơn là số 2 và Hải cũng là hai ở đây chỉ đời vua thứ II của Nam Chiếu sau Phùng Hưng) .
Phùng An trong sử Nam Chiếu là Cái Lỗ Phong cũng đọc là Các La Phượng
thực ra Cái Lỗ Phong không phải tên họ mà là danh hiệu hàm nghĩa : chúa ( cái) , Lỗ – Lễ là tên nước , Phong là tên đất (Phong châu) .
Nay xét tổng thể lịch sử nước Nam có đô là Lâm ấp từ khi Khu Liên lập quốc . ..dám nói thẳng nói thật ...chưa chắc vua Chiêm thành Trà Toàn đã xưng bừa...khi gọi ‘vua ta’ là cháu con , lịch sử Việt và Cham còn muôn vàn khuất tất ...xưa nay nghe tên Lâm ấp thì không dám ‘nhận’ nhưng khi gọi đích danh nước NAM của Nam chúa thì nhận ra ngay ... .
Vua Lê Lợi thường gọi là ông đạo Chăm là người Cham có tư liệu nói là người Mường thì cuộc chiến Việt - Chiêm thời ấy chỉ là nội chiến .
Tương tự nếu nói con cháu Nam chúa đời thử II Phùng An diệt tộc con cháu Nam chiếu đời thứ II Phùng Hải là hồ đồ không biết phải trái đúng sai gì cả . cùng là người Nam con dân của Nam chúa thì ai diệt ai ?.
Người Tàu đã ‘bê’ nguyên si đất khởi lập nước Nam Chiếu từ phía Tây Nhị hà hay Hồng hà ở Bắc Việt nam lên tuốt phía Tây Nhĩ Hải là hồ giống như hình cái tai cái mũu gì đó ở Vân Nam nhằm lừa loài người rằng ….nước Nam Chiếu chẳng dính dáng gì đến lịch sử Việt nam …và thâm hơn nữa xóa được truyện Nam Chiếu tức dấu đi sự liên hệ lịch sử và dòng máu của người Kinh – Mường – Chiêm để rồi tha hồ lu loa lừa bịp xấu sa …người Việt chiếm nước của người Chiêm …
Về văn hóa Việt có chuyện lớn nhưng ít người để ý ….mãi đến đời Trần Duệ Tông 1373-1377 nhà vua mới ra sắc chỉ thống nhất Việt ngữ , lấy tiếng Kinh làm tiếng phổ thông , lệnh …từ nay trong cả nước không được nói tiếng Chiêm tiếng Lào nữa . việc này chỉ ra từ qúa khứ sâu thẳm xã hội Việt đã là xã hội đa sắc đa tộc ; Kinh – Mường – Lào – Chăm chỉ là các cành mọc ra từ 1 thân cây , Sử thuyết Hùng Việt cho tất cà là con cháu của Ngũ Thái hay 5 tổ phụ : Thái Cao Bào Hy , Thái Viêm Thần Nông , Thái Khang Thiếu Hạo , Thái tIiết Xuyên Húc và sau cùng hoà hợp tất cả thành con cháu Thái Công đế Minh hay đế Hoàng ,Việc xác định thứ tiếng phổ thông làm cơ sở giao tiếp cho toàn xã hội này có khác gì cách mạng văn hóa kĩ thuật ...” Thư đồng văn xa đồng trục: ở Trung hoa xưa .
Thông tin về nước Nam chiếu là cơ sở pháp lí vững chãi không thể bác bỏ cho bản đồ Đại Nam thời Nguyễn Việt Nam ;
Nhà vua cũng noi theo truyền thống truyền từ thời Đại Vũ kiến quốc cho đúc Cửu đỉnh tượng trưng cho các miền đất nước và sau cùng ban hành sắc chỉ khẳng định nguồn gốc 1 cách chắc chắn rõ ràng
... từ nay gọi là nước Đại Nam hay Đại Việt Nam .
Từ nước Nam chiếu đời vua thứ I Phùng Hưng sang đời thử II thì chia làm đôi , lộ Lâm an từ Qúy châu xuống Diễn châu thành ra nước Nam chiếu của vua phùng An, còn lộ Như Hoàn từ Cầm châu suôi về Nam thành nước Hoàn vương sau là Chiêm Thành .
Trong dòng sử Việt Cả 2 triều chúa ; chúa Trịnh ở đàng Ngoài và chúa Nguyễn đàng trong đều có gốc từ khởi nghĩa Lam sơn của vua Lê Lợi tức nhà Nguyễn kế thừa quốc thông nhà Lê , cả 2 cùng là hậu thân của Nam chiếu đời thứ II Phùng An và Chiêm thành là hậu thân của nước Hoàn vương con cháu Nam chiếu đời thứ II Phùng Hải.
Cho mãi tới thời khởi nghĩa Lam sơn chống quân Tàu nhà Minh xâm lược của vua Lê Lợi 2 dòng con cháu Phùng hưng mới tái hợp thống nhất thành dân một nước như xưa ,
Phổ chí tộc Phan người Chăm hai làng Đà Sơn và Đà Ly
nghe tin vua Lê khởi nghĩa. Ông nói: dòng giống họ Lê gốc người động Thanh Lam, cùng một nòi giống Chiêm của ta, ông bèn xuất tiền của, kêu gọi các châu huyện chuẩn bị lương tiền, cùng các loại lương tiền cùng các loại thực phẩm để cống hiến cho binh lính nhà Lê.
Phổ chí có nhắc lời một vị tổ đời thứ ba nói rằng ông ta “cùng chủng Chiêm” với vua Lê. Hiện nay, nguồn gốc tộc người của Lê Lợi vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ và có ý kiến cho rằng Lê Lợi thuộc tộc Mường. Lam Sơn, quê hương của Lê Lợi, được dân địa phương gọi theo âm cổ là “làng Cham”.
Liệu có mối quan hệ nào giữa tộc người Mường và nhóm ngươì Chàm ở vùng bắc Champa ?
Dù cho có bao nhiêu nhóm tộc ngưòi đã sống ở Champa và dù cho văn hoá của các nhóm này có khác nhau bao nhiêu thì tất cả cũng đã hoà trộn và hình thành một văn hoá chung, ở đó khó mà phân biệt được đâu là Chiêm, đâu là Việt, đâu là những yếu tố khác. Và tất cả đã làm nên một cộng đồng cư dân với những đặc trưng văn hoá phong phú tại miền Trung Việt Nam.
Sắc chỉ của vua Minh Mạng viết ...Từ nay gọi là đại Nam hay đại Việt Nam tức giang sơn liền 1 giải từ Bắc xuống Nam , từ Đông sang Tây, người Nam con dân của Nam chúa lại quy thành 1 dòng 1 giống như xưa .
Bất chấp muôn vàn mưu ma chước qủy nhằm bôi nhọ của kẻ thù thì Ta vẫn là Ta người Đại Việt Nam vẫn sống 1 cách thanh thản ung dung tự tin tự tại , không những bây giờ và sẽ mãi mãi như thế .
Kết quả phân tích DNA đã được công bố rộng rãi ;
Xin trích 1 đoạn tin trên mạng internet ;
Theo GS.TS Nguyễn Thanh Liêm, các phân tích về hệ gen người Việt được công bố thể hiện sự khác biệt của người Kinh đối với các quần thể người khác. So sánh với cơ sở dữ liệu 1000 hệ gen người, khoảng 1/3 số lượng biến đổi di truyền ở quần thể người Kinh không xuất hiện trong quần thể người Hán và ngược lại.
“Đặc biệt, kết quả phân tích nguồn gốc tổ tiên của các quần thể người cho thấy người Đông Nam Á hiện tại, bao gồm người Kinh Việt Nam có nguồn gốc chính từ người Đông Nam Á cổ đại. Các dữ liệu cũng khẳng định người Kinh và người Thái có hệ gen tương đồng cao và quan hệ tiến hóa gần gũi. Trong khi đó, sự giao thoa và dịch chuyển gen từ các quần thể người Đông Á đến quần thể người Kinh Việt Nam là không đáng kể”- GS.TS Nguyễn Thanh Liêm nhấn mạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét