I -Thời Thần Thoại : thuần truyện
Hư cấu về nguồn gốc thời tiền quốc ,thời thần thoại không thể xác định Không và thời gian .
- Hùng Dương vương – Thái Cao chính là Bào Hy trong sử Thiên hạ
- Hùng Hiển vương – Thái Viêm là Thần Nông
- Hùng Nghị vương – Bảo lang – Thái Khang là Thiếu Hạo
- Hùng Diệp vương – Quang lang – Thái Tiết là Xuyên Húc
Bản lề : Khoảng 3000 TCN – 2500 TCN thị tộc từ sông Khang – Mêkong di chuyển đến sông Cơ hay Cả , nơi đây Hùng Vũ vương tức vua Hùng – Hiền lang – Thái Công – đế Minh – Hoàng đế Hiên Viên trên cái nền Hữu Hùng tức họ Hùng – thị tộc Hùng kiến lập Hùng quốc ; cổ sử ghép hữu Hùng hay họ Hùng với Hùng quốc thành tên nước tiên khởi : Hữu Hùng quốc lãnh thổ là đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh sau mở mang về lưu vực tam giang :Hồng – Đ̣à – Lô ngày nay, cổ sử Thiên hạ gọi là đất Đào – Đường .
II – Thời Huyền sử : trong truyện có sử.
Khoảng 2500 TCN – 2200TCN tại Bắc trung Việt – Bắc Việt và Quảng Tây – Đông Vân Nam ngày nay cổ sử gọi là đất Giao chỉ và Nam Giao. tư liệu cũng gọi là thời Đường – Ngu .
Quốc gia hình thành trải qua các triều đại với thông tin nửa thực nửa hư . :
Hùng Hy vương – Viêm lang – đế Nghi – đế Nghiêu
Hùng quốc vương – Lâm lang – Đế Thuấn – (Lộc tục ?)
Quốc gia hình thành trải qua các triều đại với thông tin nửa thực nửa hư . :
Hùng Hy vương – Viêm lang – đế Nghi – đế Nghiêu
Hùng quốc vương – Lâm lang – Đế Thuấn – (Lộc tục ?)
Bản lề : Khoảng 2200 TCN – 2000TCN quốc gia sơ khai chuyển mình thành Vương quốc : Hùng Việt vương – Tuấn lang , sử Thiên hạ gọi là Đại Vũ nghĩa là vua lớn kiến lập Thiên hạ , lãnh thổ quốc gia ban đầu gồm miền Bắc trung Việt – Bắc Việt và Quảng Tây – Đông Vân Nam , cổ sử gọi là miền Giao chỉ và Nam Giao sau Đại Vũ mở rộng về phía Tây tới sông Khang tức Mékong ngày nay
- Đại Vũ – Kinh Dương vương thứ III kết duyên cùng Long Nữ con Động đình hồ quân , lãnh thổ Đông -Tây hợp nhất , phía đông đến Quảng Đông ngày nay .
III – Thời sơ sử : trong sử có truyện.
Khoảng 2000 TCN – 1100 TCN
Hùng Hoa vương – Hải lang , đế Khải nhà Hạ
Hùng Huy vương – Long tiên lang – đế Thảnh thang nhà Thương
Hùng Uy vương – Hoàng hải lang – đế Bàn canh Nhà Thương Ân
Thời Thương Ân tức Thương II lãnh thổ Thiên hạ phía Bắc (nay) mở rộng tới lưu vực Hoàng hà , phía Tây đến Thiểm Tây – Tứ xuyên ngày nay
Hùng Hoa vương – Hải lang , đế Khải nhà Hạ
Hùng Huy vương – Long tiên lang – đế Thảnh thang nhà Thương
Hùng Uy vương – Hoàng hải lang – đế Bàn canh Nhà Thương Ân
Thời Thương Ân tức Thương II lãnh thổ Thiên hạ phía Bắc (nay) mở rộng tới lưu vực Hoàng hà , phía Tây đến Thiểm Tây – Tứ xuyên ngày nay
bản lề : Hùng Chiêu vương – Quốc tiên lang – Tây bá Cơ xương hợp nhất đất của Tây bá và Bắc bá lập nước Văn lang – Âu Lạc , đô là Phong kinh ở Giao chỉ . (rất có thể là ở Phú thọ nơi có đền Hùng ngày nay) .
Khoảng năm 1100 TCN , lãnh thổ Văn lang đông giáp Nam Hải tức biển Đông , tây tới Ba Thục , bắc tới hồ Động Đình và nam tới nước Hồ Tôn .
sau Vũ vương kế nghiệp lên ngôi Thiên tử kiến lập Thiên hạ nhà Châu tôn phong Cơ Xương là Châu Văn vương ; vương tổ của triều đại .nước Văn lang trở thành Trung – hoa trung tâm của Thiên hạ .
Khoảng 1000 TCN Hùng Ninh vương – Thừa Văn lang kiến lập Thiên hạ nhà Châu lên ngôi thiên tử hiệu là Châu vũ vương .
lãnh thổ Thiên hạ Bắc tới Hoàng hà (sau Tần mở rộng thêm tới trường thành) , Nam hết đất Đông nam Á lục địa , Tây giáp tiều lục địa Ân độ và Tây tạng ngày nay , Đông giáp biển Hoa Đông và biển Đông ngày nay .
Khoảng năm 1100 TCN , lãnh thổ Văn lang đông giáp Nam Hải tức biển Đông , tây tới Ba Thục , bắc tới hồ Động Đình và nam tới nước Hồ Tôn .
sau Vũ vương kế nghiệp lên ngôi Thiên tử kiến lập Thiên hạ nhà Châu tôn phong Cơ Xương là Châu Văn vương ; vương tổ của triều đại .nước Văn lang trở thành Trung – hoa trung tâm của Thiên hạ .
Khoảng 1000 TCN Hùng Ninh vương – Thừa Văn lang kiến lập Thiên hạ nhà Châu lên ngôi thiên tử hiệu là Châu vũ vương .
lãnh thổ Thiên hạ Bắc tới Hoàng hà (sau Tần mở rộng thêm tới trường thành) , Nam hết đất Đông nam Á lục địa , Tây giáp tiều lục địa Ân độ và Tây tạng ngày nay , Đông giáp biển Hoa Đông và biển Đông ngày nay .
- Vũ vương bỏ Phong kinh dời đô về Cảo kinh ở Vân nam (rất có thể là Côn minh ngày nay) sử gọi là thời Tây Châu .
- Thời Chiêu vương và Ninh vương kiến lập nhà Châu sử Việt chép thành An Dương vương thay Hùng vương lập ra nước Thục .(Theo Dịch học Châu - sáng và Thục - chín cùng là Dịch tượng chỉ phía Tây).
IV – Thời Lịch sử
- - Khoảng năm 770 TCN Hùng Tạo vương – đức Tân lang sừ Thiên hạ gọi là Châu Bình vương – bỏ Cảo kinh dời đô về Lạc ấp cũng gọi là Đông kinh (rất có thể là Đông đô Hà nội ngày nay) trên đất Giao chì bắt đầu thời Đông Châu .
- Tinh túy của nền văn minh Thiên hạ ngày nay thường gọi sai là văn minh Trung hoa tiêu biểu là Tứ thư - Ngũ kinh , Châu lễ và các phép phụ đạo - phong tước kiến địa v.v..đều là thành tựu của thời châu .
- Chứng tích thời kì Đông Châu vô cùng quan trọng với nền văn minh Thiên hạ là số hiện vật khảo cổ Đông sơn ở Việt nam .
Việc dời đô từ đất Kiểu (Điền - Vân nam) sang Giao chỉ tức Giao chỉ chuyển mình từ 1 địa phương trở thành trung tâm của cả Thiên hạ đã để lại dấu vết trên di tồn vật chất :
Hiện vật khảo cổ Đông sơn cho thấy :
- Sự đột biến cả về chất và lượng của khí vật chế tạo so với thời gian trước đó và trong hết cả Thiên hạ. .
- Phong cách Điền trên hiện vật khảo cổ .
Dựa vào số hiện vật Đông sơn tiên tiến và phong phú này giới nghiên cứu Việt nam đã sai lầm cho đây là thời dựng nước khởi đầu của lịch sử nước Việt
……….
……..
……..
Từ triều Đông châu đến nay dù trải nhiều thăng trầm , vận nước qua nhiều cơn nguy khốn mạch liên thông với cội nguồn đã 2 lần đứt đoạn thời ‘giặc’ cỏ Lục lâm và ‘giặc’ Giả tức nước Ngụy Hán tộc xâm lăng diệt quốc nhưng rồi lại được khôi phục , quốc thống vẫn liên tục truyền đến hôm nay .
2/3 đất đai Thiên hạ nhà Châu đã bị Hán tộc chiếm đoạt , con dân bị Hán hóa , gia sản tiền nhân họ Hùng truyền cho hậu thế chỉ còn lại miền Đông Nam Á lục địa ,
HỮU HÙNG QUỐC xưa chính là cội nguồn cuả ASEAN ngày nay . Thật Đáng buồn …chỉ còn duy nhất Việt Nam có đền Hùng thờ quốc tổ , hầu hết phần ASEAN còn lại do chuyển đổi theo văn hóa Ấn , qua thời gian dài thông tin qúa khứ dân tộc thởi tiền Ấn hóa hầu như đã bị xóa trắng .(hoặc cũng có thể những thông tin này còn tiềm ẩn đâu đó ; dưới dạng này hoặc dạng khác nhưng chưa được khám phá 1 cách có hệ thống và xuyên suốt) .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét