Viên Đằng Phi – nguồn đăng lại từ http://asakicorp.com/bachviet18/?p=2889
Dưới đây chúng tôi chuyển ngữ những phần chủ yếu một bài thuyết giảng
phổ thông về vấn đề này của học giả Viên Đằng Phi 袁腾飞, Giáo sư Khoa
Lịch sử, Đại học Sư phạm Thủ đô Bắc Kinh đăng trên Nam phương bộ thị báo南方都市报 (www.nddaily.com
南都网). Trong bài viết này, ông cũng lý giải về nguồn gốc lịch sử dẫn tới
nhược điểm “nhất tự đa nghĩa” (cùng một từ có nhiều nghĩa dẫn tới mơ hồ
và khó khăn trong diễn đạt, một biểu hiện của sự lạc hậu, thiếu thốn từ
vựng trong ngôn ngữ) của tiếng Trung Quốc hiện đại:
(…)
Ngôn ngữ quan phương hiện tại (Quan thoại), được gọi là phương ngữ miền
Bắc, là một ngôn ngữ đã bị Hồ hóa trong quá trình lịch sử, tính ưu mỹ
của Hán ngữ đã hỗn giao với sự thô sơ của ngôn ngữ các rợ Hồ làm cho Hán
ngữ trở nên thô thiển, đơn sơ, ngoại trừ việc còn giữ được cơ sở kết
cấu ngữ pháp (chủ vị tân) của ngữ hệ Hán-Tạng ra, thì Hán ngữ về cơ bản
đã bị đánh gục tơi tả, cuối cùng bị Hồ hóa theo ngữ hệ Altai, là loại
ngôn ngữ địa phương mà về tính chuẩn xác, tính thực dụng thì lạc hậu hơn
nhiều so với các phương ngữ miền Nam (…) mà đại diện là Cantonese
(tiếng Quảng Đông).
Từ cuối nhà Đường trở đi, phía Bắc bị cai trị lâu dài bởi Khiết Đan, Nữ
Chân (Mãn), Mông Cổ v.v. (thuộc ngữ hệ Altai là chủ yếu) do đó chắc chắn
là phương ngữ phía Bắc khó mà tránh khỏi bị Altai hóa, nên mất đi hầu
hết những đặc điểm vốn có trong Hán ngữ, đồng thời bị pha tạp một số
khẩu âm (giọng) ngoại tộc. Tỷ như, đại bộ phận các giọng địa phương của
Hán ngữ đều có thể phân biệt hầu hết các âm gió-nổ (尖团音 Tip group tone)
trong khi các ngữ thanh phương Bắc không thể phân biệt được.
Đa số Hán ngữ địa phương đều phân biệt nhập thanh (入声) với phi nhập
thanh (非入声). Tiếng phương Bắc không phân biệt được. Tiếng phương Bắc chỉ
có bốn âm giai điệu (Tone): Âm bình 阴平, Dương bình 阳平, Âm thượng 阴上, Âm
khứ阴去。
Còn Hán ngữ lại phân thành tám âm giai điệu: Âm bình 阴平, Dương bình 阳平,
Âm thượng 阴上, Dương thượng 阳上, Âm khứ 阴去, Dương khứ 阳去, Âm nhập 阴入,
Dương nhập 阳入.
Các phương ngữ miền Nam, trừ tiếng Việt Quảng Đông粤语 ra, đều ít nhiều có
hiện tượng mất bớt âm giai điệu, nhưng số âm giai điệu còn lại đều
nhiều hơn phương Bắc, ít nhất là còn từ sáu âm giai điệu trở lên. Và
tiếng Việt Quảng Đông không chỉ bảo tồn tám âm giai điệu, mà còn thêm
vào giữa Dương nhập và Âm nhập một âm giai điệu nữa là Trung nhập, thành
ra tiếng Việt Quảng có đến chín âm giai điệu.
(…)
Ngữ hệ Altai được đặc trưng bởi ít ngữ tố, đa âm tiết, ví dụ đặc biệt là
Nhật Bản ngữ. Phương Bắc, so với phương Nam, cũng hiện rõ đặc điểm này,
do đó mà có khó khăn lớn khi biểu đat. Tỷ như dùng tiếng phổ thông khi
giảng giải có dính dáng chút ít học thuật, chỉ dùng lời nói (khẩu ngữ)
không thôi là không đủ, bắt buộc phải viết ra chữ (văn tự) thì mới hiểu
được.
Bởi vì có quá ít âm tố 音素, dẫn đến hiện tượng đồng âm quá nhiều. Vì vậy,
để làm giảm đồng âm, miền Bắc sẽ phải tăng số lượng các âm tiết của từ
vựng. Ở phía Bắc, các từ vựng đơn âm tiết là cực kỳ ít, còn số từ vựng
đa âm tiết thì cực lớn.
Các phương ngữ miền Nam thì ngược lại, vì có nhiều âm tố nên hiện tượng
đồng âm ít hơn, số lượng từ vựng đơn âm rất phong phú, số từ vựng có hơn
ba âm tiết rất ít, và chủ yếu là đến từ tiếng miền Bắc.
Vậy cho nên để thể hiện cùng một ý tứ trong một đoạn thoại, người miền
Nam dùng ít từ hơn người Bắc, đương nhiên là hiệu suất ngôn ngữ cao hơn
nhiều.
Ngôn ngữ Bắc chẳng hiểu sao lại bắt người ta đệm thanh âm “ěr -儿” vào,
chẳng có lý do mà phải tăng thêm âm tiết “ěr”, khiến ngôn ngữ diễn đạt
đã có hiệu suất không cao, nay lại càng bị kéo thấp xuống nữa.
Nếu bạn so sánh phim Hồng Kông bản tiếng Quảng Đông với bản tiếng Quan
thoại, bạn sẽ phát hiện ra hiện tượng trong bản tiếng Quan thoại nhiều
nội dung ngôn từ bị cắt gọt bớt. Lý do là tiếng Quảng Đông chỉ với mười
từ âm tiết là đủ ý cho một đoạn thoại, còn tiếng Quan thoại phải sử dụng
đến 15, 16 âm tiết mới đủ, cho nên để khớp lời với miệng, chỉ có cách
cắt bớt nội dung.
Từng có người luận bàn rằng Hán ngữ là một loại ngôn ngữ lạc hậu, luận
điểm có nhiều chỗ sai, nhưng cũng có rất nhiều điểm là hoàn toàn chính
xác, tìm hiểu đến nơi đến chốn thì ra người đánh giá này chỉ dựa trên cơ
sở của Hán ngữ hiện tại, lý luận sặc mùi sùng ngoại, thật đáng thương
hại, anh ta dường như quên mất Hán ngữ cổ rồi!
Trong thực tế, chúng ta phải dám thừa nhận, ngôn ngữ đơn âm, nếu chỉ có
bốn âm giai điệu mà lại bắt nó phải rạch ròi chuẩn xác thì thật nực
cười. Hãy thử lấy phương ngữ Hakka là đại diện của miền Nam, nhờ số cách
phát âm nhiều, rất dễ giải quyết hiện tượng câu đa nghĩa quá nhiều
trong Hán ngữ hiện đại.
(…) Ngôn ngữ quyết định trình độ của nền văn minh của một dân tộc. Trung
Quốc, là một trong bốn nền văn minh cổ đại, trên thực tế, kể từ khi
khởi đầu thời đồ đá, nền văn minh Trung Hoa biến đổi theo thời gian ngày
càng lạc hậu so với văn minh Tây phương. Khi ở Trung Quốc vào thời nhà
Hạ nhà Thương, thì văn minh La Mã, Ai Cập, Lưỡng Hà đã đi trước Trung
Quốc 2.000-3.000 năm, và Trung Quốc, trong hoàn cảnh kín cổng cao tường,
đã phải mất gần hai ngàn năm, cuối cùng đã bắt kịp, và sau đó vượt xa
lên phía trước. Nhưng kể từ sau đời Tống thì lại nhanh chóng suy nhược, ở
đây liên quan đến một hiện tượng rất quan trọng, đó là trước Tống thì
chính quyền quốc gia dựa trên ngôn ngữ chính thức (quan phương ngữ ngôn)
là Hán ngữ, ưu mỹ, chuẩn xác, còn sau thời Tống thì ngôn ngữ chính thức
của quyền lực nhà nước lại là ngữ ngôn phương Bắc (…) Các Trạng nguyên
thời Đường, Tống, Nam Bắc triều về cơ bản là tương đồng, từ Tống về sau
thì bị phương Nam lũng đoạn, thời cận đại, phương Nam phát triển cao hơn
Bắc, Bắc phát triển cao hơn Tây Bắc, còn Đông Bắc trở thành một đỉnh
cao vì thời kỳ đầu công nghiệp nặng tập trung ở mảnh đất này, được sự
trợ giúp của nhà nước, thế mà cũng vẫn không thể sánh nổi với phương
Nam.
(…) Âm phương Bắc có rất nhiều các loại âm mà phương Nam không có như âm
ěr (“ㄦˇ,hậu tị âm (âm sau mũi 后鼻音),hậu thiệt âm (âm sau lưỡi 后舌), là
những âm khi nói cần phải vận động đầu lưỡi rất nhiều, phương Nam ít
loại âm này nên nói được rất nhanh. Mọi người hãy thử nói câu “骑车上公园儿”
theo ngữ ngôn Bắc (Qí chē shàng gōngyuán er = Đi xe ra công viên) rồi so
với cách nói miền Nam “骑 sang公园” xem nó chậm hơn bao nhiêu. Tốc độ của
tư duy tỷ lệ thuận với tốc độ lời nói, nói nghĩ kiểu ậm à ậm ừ lai rai
của người phương Bắc làm sao có thể cạnh tranh được với hiệu suất cao
của người phương Nam?
(…)
Tại sao một số học giả tin rằng tiếng Quảng Đông gần Hán ngữ cổ hơn
cả? Thật ra đây không phải là nói chơi, bởi vì tiếng Quảng Đông đã bao
hàm tất cả bốn thanh tám vần của Hán ngữ, một phần nhỏ chịu ảnh hưởng
của ngôn ngữ các dân tộc Lĩnh Nam[ý nói các dân tộc ở cực Nam Trung Hoa
như xưa như, Âu Lạc, Nam Việt …](…) trong tiếng Quảng Đông có một số
lượng lớn các từ bế âm tiết, âm đọc phụ âm nguyên âm tương đương nhau,
có hoặc không có bế âm tiết tạo ra khác biệt rất lớn. Tỷ dụ hai chữ Đại 大
và Đạt 达 trong tiếng Quan thoại chỉ đọc khác nhau ở âm vận (dấu thanh
điệu) “dà và dá” nhưng trong cách phát âm tiếng Quảng Đông chữ đầu là âm
tiết mở (khai âm), chữ sau là âm tiết đóng (bế âm). Chữ đầu đọc là
“dai”, chữ sau đọc là “dat” (chữ t là ký hiệu biểu thị tác dụng đóng của
âm tiết thứ hai, không phát thành âm). Tiếng Quảng Đông không có âm uốn
lưỡi, cũng giống như Hán ngữ cổ vậy. Nhìn ra ngoài Trung Quốc xem hai
nước Việt Nam và Hàn Quốc là những nước chịu ảnh hưởng của Hán ngữ cổ,
tuy rằng họ có bản ngữ dân tộc riêng, nhưng khi họ đọc chữ Hán (Hán tự
thỉnh thoảng dùng để biểu ý khi ghi chép sang bản ngữ dân tộc của họ),
thì thực là rất giống tiếng Quảng Đông.
Ví dụ, tất cả chúng ta đều biết rằng thương hiệu Hàn Quốc “三星 Tam
Tinh-Ba sao) thì hai chữ Hán đó Hàn Quốc đọc là “Samsung”, còn tiếng
Việt (tam tinh) và tiếng Quảng Đông (saam sing) đọc hai chữ này gần
giống nhau (…)
Sự phân hóa của Hán ngữ bắt đầu lúc nào?
Thời Mạt Đường Ngũ Đại, dân thiểu số lại gây vó ngựa sa trường, Bắc Tống
chỉ lo giữ cho được đất gốc của Trung Quốc, còn Yên Vân thập lục châu
(16 vùng thuộc Bắc Kinh Thiên Tân và bắc phần Sơn Tây Hà Bắc ngày nay)
rơi vào tay Khiết Đan, cũng là lúc bắt đầu thời Hán Hóa Khiết Đan. Khiết
Đan thuộc chi ngôn ngữ Altai-Mông Cổ (một phiên bản cổ của chi ngôn ngữ
Altai -Tungus), khác với mười sáu nhóm nhỏ ngôn ngữ của rợ Hồ. Vùng đất
Hán cũ trước khi bị người Khiết Đan chiếm vốn đã có một lịch sử văn
minh, cho nên để gìn giữ chế độ Khiết Đan cũ, họ đã cố phân chia ra hai
vùng Khiết Đan và Hán riêng biệt để cai trị. Họ lấy ngôn ngữ dân tộc làm
ngôn ngữ chính thức của đế quốc, có văn tự riêng, tuy vậy thì văn hóa
dần dần cũng bị Hán đồng hóa, dù dưới sự cai trị lưỡng chế, nhưng ngôn
ngữ không phải là chuyện của riêng ai, theo chính trị thâm nhập mạnh mẽ
vào Bắc Hán ngữ, bắt đầu làm cho cách phát âm của Hán ngữ pha giọng
Altai từ đấy.
Vả lại văn tự Hán ngữ thì tốt cho việc biểu đạt mà không đòi hỏi cùng
một khẩu ngữ, nên chi Hán ngữ có sức mạnh lớn đồng hóa các tộc khác,
không cần tác động lên văn tự của ngôn ngữ Khiết Đan có vị thế chính trị
cao hơn. Mặc dù người Khiết Đan đọc chữ Hán với âm khác với người Hán,
nhưng về văn tự thì đều hiểu như nhau, nên sự phát âm như nhau là không
bắt buộc.
Tôi đoán từ thời gian này trở đi, khi Bắc Kinh đã trở thành lãnh thổ
phía Nam của nhà Liêu, ngôn ngữ nói của Trung Quốc vì phục tùng tầng lớp
cai trị của đế chế Đại Liêu nên bắt đầu quá trình Hán ngữ phía Bắc biến
hóa theo phát âm của kiểu Altai. Âm uốn lưỡi (卷舌音-quyển thiệt âm
retroflex) (bao gồm cả âm bật lưỡi 弹舌音-Đạn thiệt âm- Tongue sound) cực
nhiều trong ngữ hệ Altai, ở đây, từ phía Bắc của Bắc Trung Quốc, ngữ âm
Altai bắt đầu thâm nhập vào Hán ngữ. Kim diệt Liêu, chia đôi thiên hạ,
nửa theo chế độ của nhà Kim, người Hán thiên di về Nam, Hán ngữ Hoa Bắc
nhận thêm kẻ xâm lược mới: ngữ hệ Altai-Tongus, bắt đầu thời kỳ âm cuốn
lưỡi gia tăng mạnh, lượng bế âm mất dần.
(…) Nhà Tống nam di, sau khi định đô ở Lâm An, ngôn ngữ của tầng lớp
quan liêu quý tộc bị ảnh hưởng bởi phương ngữ Hán Ngô Việt vốn có nguồn
gốc Hán Tạng đã tồn tại trước thời Xuân Thu, so với Hán ngữ thời Nam Bắc
triều thì đã phân hóa rõ rệt. Hán ngữ Hoa Bắc đã bị Tongus hóa, nhưng
vùng miền núi có thể là biệt lệ (bằng chứng cho thấy rằng nay vẫn còn có
những ngôi làng ở khu vực miền núi ở Sơn Tây còn giữ được thanh nhập
của Hán ngữ), còn khẩu ngữ của hoàng thân quốc thích và quan lại triều
Nam Tống thì đã chuyển đổi dần theo giọng nói của Ngô Việt. (Sau 1.500
năm lịch sử, vốn dĩ đã thông dụng Hán ngữ, muốn đồng hóa họ e cũng khó
khăn), và phía Nam của dãy Nam Lĩnh, vì núi non cản trở, nên ở đây Hán
ngữ gốc có từ thời Tần Thủy Hoàng ít bị thay đổi. Loại Hán ngữ phá cách
từ phương bắc theo vó ngựa xâm lược của dân du mục, khi đến được Giang
Nam, Hoa Nam vượt qua bao nhiêu núi đồi cách trở nên ảnh hưởng đã yếu đi
nhiều, chưa kể đến hàng rào cản là dãy Lĩnh Nam.
Đế quốc Mông Cổ chiếm nước Kim, một lần nữa Hán ngữ Hoa Bắc lại nhận
thêm kẻ xâm nhập với khẩu ngữ mới (người Mông Cổ giết hại 90% dân số
sống ở Bắc Trung Quốc, và phần còn lại phải chịu tuân phục). Lần này kẻ
thống trị Hoa Bắc lại nói tiếng thuộc chi ngữ hệ Altai-Mông Cổ. Ai có
hứng thú xem lại lịch sử nhà Nguyên nên biết rằng sự cưỡng bức chính trị
thời này là đặc biệt kinh khủng. Các quan chức người Hán ai mà không
tập theo tiếng Mông Cổ thì không thể yên ổn được (…)
Lúc này, trải qua sự xâm nhập và ảnh hưởng của chi ngữ ngôn Altai-Mông
Cổ lẫn chi Altai-Tongus vào Hoa Bắc, đầu tiên tại kinh đô Đại Đô (tức
Bắc Kinh) của nhà Nguyên đã hình thành nên tiếng Nguyên Đại Đô (tiếng
Bắc Kinh), đó chính là thủy tổ của tiếng Phổ thông ngày nay.
Nhà Minh lật đổ sự thống trị thực dân Mông Cổ, lập Kinh Đô ở Nam Kinh,
nhưng rồi thân vương mạnh nhất là Yên Vương Chu Lệ ở Bắc Kinh thoán đoạt
ngôi vua, lại quay về Bắc Kinh đóng kinh đô, giữ Nam Kinh làm kinh đô
phụ (Bồi Đô-陪都), dẫn tới số phận Hán ngữ Hoa Bắc bị Hồ hóa là điều không
thể thay đổi. Cuối cùng thì nhà Minh cũng xác định tiếng nói của Đại Đô
là tiếng nói chính thức của nhà nước. Sau đó, các vùng phụ thuộc Minh,
các sắc dân Mãn Châu thuộc chi Tongus, nơi đã từng khởi binh chinh phục
Trung Hoa, đều bị Hán hóa hoàn toàn, về văn hóa thì bị ảnh hưởng bởi
Trung Hoa, nhưng tiếng nói của vùng Hoa bắc cũng bị pha tạp, cuối cùng
hình thành nên cơ sở cho ngôn ngữ hiện tại là tiếng phổ thông Quan thoại
(mandarin) – kỳ thực thì tên gọi này đối với người Hán là một đại sỉ
nhục, vì Mandarin chính là phiên âm của”满大人- Mãn đại nhân” tức là “tiếng
nói của các quan Mãn Châu” (chữ Quan thoại cũng từ đó mà ra).
Bài viết về Hán ngữ trích từ bài báo: Lạm bàn về dạy và học tiếng Trung Quốc ở Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét