Nhà nghiên vứu Tạ Đức vừa cho ra đời cuốn sách : Nguồn gốc và
sự phát triển của trống đồng Đông Sơn (Nxb Tri Thức và Nhà sách Song
Thủy xuất bản 2017)
Cuốn sách có 668 trang, gồm 2 phần, 33 Chương. Phần I: Nguồn gốc và sự
phát triển của trống đồng Đông Sơn; Phần II: Nguồn gốc và sự phát triển
của các biểu tượng trên trống đồng Đông Sơn.
Để giúp những người chưa có cơ hội đọc , Tác gỉa đã có bài viết
dành riêng cho Tạp chí Văn hóa Nghệ An tóm tắt nội dung sách, nét
chính là trình bày 12 nhận định cũng gọi là 12 luận điểm then
chốt liên quan tới trống đồng Đông sơn .
Xin tham gia luận bàn với tác gỉa về luận điểm 1 .
Luận điểm 1:
An Dương Vương (trị vì 207-179 TCN) là người đã cho đúc và ban phát
trống đồng như một biểu tượng của vương quyền và thần quyền Bách
Việt.Cao Lỗ, người chế tác “nỏ thần” cũng là người lo việc đúc trống.
Trống đồng Âu Lạc hay Lạc Việt, sau gọi là trống đồng Đông Sơn, thực
chất là một thành quả chung của văn minh Bách Việt, một đỉnh cao của văn
hóa Lạc Việt.
Luận điểm này khác với luận điểm hiện phổ biến cho rằng trống Đông Sơn là trống của các vua Hùng tạo ra.
Cụ thể, cố GS Phạm Huy Thông, trong một bài viết trên tạp chí Khảo cổ
học số 14, năm 1974 xác định: “trống đồng Đông Sơn của các vua Hùng” đã
“xuất hiện ít ra 25 thế kỷ nay”.[1]
Cố GS Trần Quốc Vượng, trong một bài viết năm 1974, kết nối các biểu
tượng chính trên trống Ngọc Lũ với các truyền thuyết Mẹ Âu Cơ, Sơn
Tinh-Thủy Tinh đã đặt câu hỏi:
Phải chăng chủ nhân trống đồng loại I (tức trống Heger I hay trống Đông
Sơn) thuộc về tập đoàn Núi, nhóm dân tộc lấy biểu trưng là
Chim-Hươu-Lửa-Nắng hạn thuộc triều đại Mặt trời và vẫn theo dòng Mẹ”?…Sự
thịnh đạt của việc thờ Thần Mặt trời trên phạm vi toàn thế giới…gắn
liền với sự xuất hiện của những ông vua đầu tiên. Và những vua đầu tiên
thì đều là những “vua-phù thủy”…
Xin lưu ý đến một câu của Đại Việt sử lược:” Đời Trang Vương nhà Chu
(696-682 TCN) ở bộ Gia Ninh có một dị nhân dùng ảo thuật áp phục các bộ
lạc, tự xưng là Hùng Vương”.
Gần đây hơn, nhà khảo cổ học Trịnh Sinh, trong cuốn Hà Nội thời Hùng Vương-An Dương Vương (2010) đưa ra các luận cứ khác:
Chiếc trống có kích thước to và hoa văn đẹp cũng đã tìm được ngay trong
lòng đất ở chân núi đến Hùng. Có khả năng các vị thủ lĩnh cao nhất thời
Hùng Vương đã từng sở hữu nhiều trống đồng và sau đó ban phát đi các nơi
khác nên khu vực tương truyền là kinh đô của các vua Hùng ít phát hiện
ta trống đồng…Có lẽ người nắm vững được bí mật của hợp kim của nghề
luyện đồng là người có “ảo thuật” áp phục các bộ lạc..
Quan niệm trống đồng Đông Sơn ra đời thời các Vua Hùng hiện được phổ biến trên nhiều sách báo và trang mạng Việt Nam.
Trong cuốn sách, luận điểm An Dương Vương là người cho đúc và ban phát
trống đồng xuất phát trực tiếp từ áng mo Đẻ khâu” hay “Sự tích trống
đồng” trong Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước của người Mường (Trương Sĩ Hùng-Bùi
Thiện 1995), trong đó kể chuyện vua Dịt Dàng đã cho đúc và ban phát
trống đồng.
Dịt Dàng chính là một phiên âm trong tiếng Mường của Yit Yang=Việt
Vương, một tên gọi khác của An Dương Vương. Theo Đào Duy Anh (1957):
thành Cổ Loa được ghi trong các sách địa chí thời Tấn, Đường, Tống là
“Việt Vương thành”. Điều này cũng phù hợp với việc Mo Mường Hòa Bình
(2010) kể Dịt Dàng là “vua đất Kinh kỳ Kẻ Chợ” đã cho người đi chặt cây
chu đồng về “dựng nhà ở đất Kinh kỳ Kẻ Chợ”, với việc Quách Điều (1925),
một quan lang Mường ở Hòa Bình khẳng định: vị vua đã đem quân đi chặt
cây chu đồng có bông thau quả thiếc ( một ẩn dụ cho việc khai thác đồng,
thiếc) ở đất Mường Ai, Mường Ống (Thanh Hóa) chính là vua Thục An Dương
Vương…
Điều sử thi và truyền thuyết Mường ghi nhận đó đã được sự ủng hộ mạnh mẽ
của một hệ thống các bằng chứng sử học- khảo cổ học- dân tộc học và
ngôn ngữ học khác cho thấy An Dương Vương, với tư cách vị thủ lĩnh từng
lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tần của liên minh Bách Việt;
với vai trò vua nước Âu Lạc hùng mạnh ở vùng đồng bằng sông Hồng; với
mối quan hệ họ hàng hay liên minh với hoàng tộc Điền, Dạ Lang, Tây Âu…
là người duy nhất có đủ điều kiện để đúc và ban phát trống đồng như một
biểu tượng cho vương quyền và thần quyền Bách Việt.
Những yếu tố gốc Thục trong hoa văn trống đồng (đặc biệt, hình đàn chim
bay quanh mặt trời vốn là biểu tượng cho Bà Tổ Chim-mặt trời của người
Bách Việt, sau trở thành biểu trưng cho hoàng tộc Khai Minh-tổ tiên An
Dương Vương); hình “mặt trời Đông Sơn” trên đầu ngói thành Cổ Loa; việc
tìm được những trống cổ và đẹp nhất như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa ở các
vùng đất quanh thành; việc vùng Thanh-Nghệ, nơi di tản, tị nạn của hoàng
tộc Âu Lạc cũng là nơi có nhiều di tích và trống đồng Đông Sơn nhất,
nơi có đền thờ thần trống đồng sớm nhất… tất cả đều khẳng định mối liên
hệ lịch sử giữa An Dương Vương và trống đồng Đông Sơn … Tiếp đó, gốc
Thục hay Tạng-Miến của từ đản khâu chỉ trống đồng trong tiếng Mường;
cách đánh trống đồng nguyên thủy theo kiểu giã cối được thể hiện trên
những trống sớm như Ngọc Lũ, Hoàng Hạ sau chỉ thấy ở người Mường; các
yếu tố văn hóa Thục và Đông Sơn trong văn hóa Mường…đã khẳng định các
suy đoán của học giả Pháp Goloubew (1936) rằng “một bộ phận người Đông
Sơn đã hòa nhập vào người Mường” và kết luận của nhà dân tộc học số 1
Việt Nam Trần Từ (1996):”Người Mường là một trong những tộc người giữ
được nhiều phẩm chất Đông Sơn nhất”. Đó chính là nền tảng hay cốt lõi
lịch sử của áng mo về sự tích trống đồng trong sử thi Mường.
Trong khi đó, trống Hi Cương tìm được ở gần Đền Hùng là dạng trống muộn
hay loại C theo cách phân loại được công nhận rộng rãi của Phạm Minh
Huyền-Nguyễn Văn Huyên-Trịnh Sinh (1987). Trong sách, tôi chứng minh
dạng trống muộn có tượng ếch đó đã phát sinh từ vùng Thanh-Nghệ, là tiền
thân của trống Heger II, còn được goi là “trống đồng Mường”.
(Hết trích dẫn)
Văn Nhân góp bàn :
Hiện tại dựa trên yếu tố thời gian; đại đa số giới nghiên
cứu đều cho Vua Hùng là thủ lãnh đã chế tạo và phân phát
trống đồng nhưng riêng theo nhà nghiên cứu Tạ Đức dựa vào tư
liệu dân gian , đặc biệt là những điều còn lưu giữ trong tộc
Mường thì không phải là Hùng vương mà chính An dương vương mới
là người làm việc này .
Kết luận của Tạ Đức có điểm xét ra không hợp lí : Linh khí
Trống đồng được ước đoán là đã có khoảng ngàn năm trước công
nguyên trùng khớp với thời trị vì của các Hùng vương trong khi
An dương vương theo sử hiện hành thì mãi tới những năm 200 TCN
mới lên ngôi như thế xét về khung thời gian thì lập luận của
Tạ đức trở nên khập khễnh khó có thể chắp nhận .
Phải chăng giữa tư liệu dân gian và chính sử có sự sai khác đưa đến sự vênh lệch bất hợp lí ?.
Nhưng Luận điểm số 1về trống đồng này của nhà ngiên cứu Tạ
Đức nếu đem đặt trong cái khung cảnh và khung thời gian của sử
thuyết Hùng Việt thì lại trở nên hoàn toàn hữu lí :
An Dương vương thực ra là Âm Dương vương vua Dịch học cũng ch́nh
là Châu Văn vương – Cơ Xương tổ của nhà Châu Trung Hoa quãng ngàn
năm trước Công nguyên tức trùng đúng với tuổi của trống đồng
Đông sơn và tiền Đông sơn .
Điểm thứ 2 Sử thuết Hùng Việt cũng cho thấy luận điểm của Tạ
Đức chẳng mâu thuẫn gì với giới sử học ‘chính thống’ ….;
Hùng vương có 18 ‘đời’ trong đó triều đại An Dương vương là các đời :
*Hùng vương thứ 12 : Hùng Chiêu vương – Quốc Tiên lang ; thời Châu Văn vương lập quốc ở đất Phong
*Hùng vương thứ 13 : Hùng Ninh vương – Thừa Văn lang ; thời Châu
Vũ vương kiến lập triều đại Châu và thiên đô về đất Kiểu .
* Hùng vương thứ 14 : Hùng Tạo vương – Đức quân lang là thời Đông Châu kinh đô dời về Lạc ấp.
Nói khác đi An Dương vương cũng chính là Hùng vương , thông tin
chứa trong tư liệu dân gian và hiện vật chẳng có gì mâu thuẫn
cả .
Trong bài viết Tạ Đức đã cho thấy An Dương Vương vua nước Âu Lạc
hùng mạnh ở vùng đồng bằng sông Hồng có mối quan hệ họ hàng hay liên
minh với hoàng tộc Điền, Dạ Lang, Tây Âu…
Với nghiên cứu về Dòng Hùng Việt thì sự việc đi xa hơn thế nhiều …
chỉ riêng về mặt ngôn ngữ mối quan hệ mà Tạ Đức nói đến đã lộ rõ
Dùng phép phiên thiết thì :
Di Yên thiết Điền
Di Hạ thiết Dạ ; Dạ lang thực ra là Di Hạ lang
Ai Lao thiết Ău – Âu , thì ra Âu chính là cộng đồng người Ai lao di ở Tây nam Trung hoa
Trong văn minh cổ Trung hoa thì 1 trung hoa không có 2 dòng tộc
người mà Hoa Hạ chỉ là tên gọi người sống ở Trung tâm hay Trung
nguyên còn Di Hạ là gọi những người sống ở Tứ phương Thiên hạ
. Hoa Hạ và Di Hạ là 2 khái niệm không thể tách ra khỏi phạm
trù Trung hoa (thực sự). An Dương vương không phải chỉ liên hệ mà
chính là Văn vương -Tây Di (vua Thuấn là người Đông Di) của Trung
hoa . (không phải Trung quốc ngày nay).
1 điểm sáng trong cuốn sách là tác gỉa Tạ Đức khẳng định mối
liên hệ lịch sử giữa An Dương Vương và trống đồng Đông Sơn … Nhiều bài
viết trong nghiên cứu về dòng giống Hùng cũng khẳng định như
thế .
Bài viết về ý nghiã những hình ảnh thể hiện trên mặt trống
đồng và bài về quẻ Lôi địa Dự đã chỉ ra điều không thể bác
bỏ sự liên hệ giữa Kinh Dịch và Trống Đồng ngàn năm trước công
nguyên , thời điểm mà theo chính sử thì người Hán mới mon men
đốn bờ Trường giang …tức lúc Giao chỉ chưa hề biết Hán là cái
chi chi . Tức những nghiên cứu của dòng Hùng Việt khẳng định
Trống đồng và Dịch học là sản phẩm phi Hán phi Tàu… , hệ quả
là một khi đã như thế thì đương nhiên tứ thánh tác thành Dịch
học : Phục Hy – Văn vương – Châu công và Khổng tử cũng như các
vua đã chế và ban phát trống Đồng không thể là người Hán hay
Tàu . Ngoại trừ số ít còn nhận mình là Đường nhân , Trung
quốc lâu nay chỉ là quốc gia của đám Thanh nhân ; những kẻ đã
xâm chiếm và còn đang thống trị Trung hoa .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét