Nước Việt cũng như
những nước từng bị Trung quốc chiếm đóng cai trị khác , Qúa khứ đất
nước chỉ còn lưu giữ trong kí ức hoặc lưu giữ trong dân gian dưới
dạng truyện kể - câu vè , Truyền trong dân gian rất nhiều sự kiện có
thực được thần bí hóa , mỗi đời truyền lưu lại thêm thắt hoặc sai lệch đi chút đỉnh đến độ sau thời
gian dài khó có thể phục nguyên đúng như sự thực ban đầu . Ở Việt Nam
2 tác phẩm khả tín nhất về qúa khứ ngàn năm của dân tộc tác gỉa cũng
phải thêm từ ...Trích quái - U linh
vào đề tựa đã cho thấy điều đó .
Sử gia Việt do thiếu tư
liệu thành văn nên không thể thể hệ thống hóa về mặt thời gian niên
đại các triều đại 1 cách chuẩn xác , trong mặt không gian sử Việt
cũng không thể đúng thực do quan điểm sai lầm ....dữ kiện qúa khứ
chỉ diễn ra trong phạm vi đất đại lúc viết sử . Vận nước có lúc
thịnh lúc suy , lãnh thổ lúc rộng lúc hẹp , tóm hết vào mảnh đất
hiện có lúc viết sử là sai lầm từ căn
bản .
Trung quốc là 1 đế
quốc đi chinh phục chiếm các nước
khác , chiếm nước nào thì họ ngoài của cải và các báu vật lập tức chiếm đoạt sách sử tư liệu nước
đó đem về nước mình , khi viết sử các triều đại theo ý đồ các Hãn
thường thì nhân danh địa danh bị sửa đổi , phương hướng và đường biên
bị sửa đổi , vị trí địa lí trên bản đồ bị sửa đổi di dời đến nơi
mà họ muốn , xét ra như thế sách sử Trung quốc chẳng còn bao nhiêu
phần là sự thực . Về không gian lịch sử thì như thế nhưng về thời
gian lịch sử tức về mặt niên đại
thì họ không có lí do để phải cạo sửa .
Vì thế Về niên đại
các triều vua Hùng Việt thì sử thuyết Hùng Việt lấy niên đại của
sử sách Trung hoa làm chuẩn .
Xét thời họ Hùng phục
hưng :
Bắc Ngụy còn gọi là
Thác bạt Ngụy và Nguyên Ngụy .
Là quốc gia của dòng
Thác bạt thành lập năm 386 , tới năm 439 thì chiếm trọn miền Bắc
Trung quốc trong thời sử Trung quốc gọi là Nam – Bắc triều , Bắc Trung
quốc hoàn toàn nằm trong tay rợ Hồ giống Mongoloid , miền Nam do hoàn cảnh cần huy động nhân
tài vật lực để chống chọi với phương Bắc vua quan đã áp dụng chế độ nửa nô lệ , tóm lại Thiên hạ cả bắc lẫn Nam đều nằm dưới
móng ngựa của các Hãn nhưng dân miền Nam dễ thở hơn đôi chút vì còn
là người dù chỉ là phó thường dân còn miền Bắc thì chỉ là đám nô lệ ...thú 2
chân .
Nguyên Ngụy tồn tại đên
năm 535 thì kết thúc , lãnh thổ chia làm 2 nước là Đông Ngụy và Tây
Ngụy .
Thực ra các tên Bắc
Ngụy , Thác bạt Ngụy hay Nguyên Ngụy chỉ là tên của sách Lịch
sử không phải là danh xưng thực sự
theo ngôn ngữ của họ .
Ngụy nghĩa là Gỉa ,
với người Việt thì Ngụy cũng là giặc , ghép chung lại thành từ kép
‘giặc- gỉa’ biến âm thành ‘giặc dã’ .
Xưa ở Bắc Trung hoa có
giống rợ hung dữ nổi tiếng , tên
gọi kí âm La tinh là Tacta , Trung
văn độc âm hóa thành ra Thát hoặc Đát.
Theo phép phiên thiết :
Thác bạt thiết Thát , nước Thác
bạt Ngụy là nước của rợ Thát cùng nòi với Mông cổ về sau . Hãn
Thành cát tư không phải là tên người ; hãn là chúa (độc âm hóa của Khan - khả hãn) , thành cát thiết thát ; Tacta biến thành thành cát tư
, Thành cát tư hãn chỉ nghĩa là chúa rợ Tacta mà thôi .
‘Thác bạt’rợ Thát –
Đát được giới viết sử Trung hoa
chuyển ngữ ra ‘Nguyên’ theo nghĩa man dã (mọi rợ chưa văn minh) có gốc từ ‘duôn’ trong ngôn ngữ Môn-Khơme . Những dòng chữ ngắn gọn trên đã chỉ rõ bản sắc Nguyên triều Trung quốc
cả tiền lẫn hậu là rợ Tacta
, tên khác là Mông cổ – Thác bạt.
Ở nước Tây Ngụy họ Vũ
Văn đã làm đảo chánh đưa Vũ văn Giác con của Vũ văn Thái lên làm vua ,
dẹp bỏ Tây Ngụy lập ra nước sử gọi là Bắc Châu (để phân biệt với các nước Châu khác ).
Năm 560 Vũ văn Ung lên ngôi vương nước Bắc Châu .
Nhưng phải đến năm 577 - 578 sau khi Vũ văn Ung diệt nước Bắc
Tề hậu thân của Đông Ngụy thống nhất miền Bắc Trung hoa thì mới được
lịch sử công nhận là hoàng đế cao tổ nhà Châu của Thiên hạ , hiệu là (Bắc) Châu vũ
đế .
Nước Bắc Châu thay da
đổi thịt ; Lịch sử chính thức nhìn nhận triều Bắc Châu từ Cao tổ Châu vũ đế là 1 triều
đình Trung hoa ,Tư liệu lịch sử chép Vũ văn Ung đã dựa theo Châu lễ
lập ra 1 triều đình Trung hoa . Châu
vũ đế trở thành Thiên tử của Trung hoa phục hưng chấm dứt
thời đen tối nô lệ Tacta hay rợ Hồ nói chung .
Sử thuyết Hùng Việt
cho Triều Bắc Châu của Châu vũ đế được sử gia Việt sai lầm viết thành 2 triều đại nước Việt : nhà tiền Ngô
của Ngô Quyền và nhà Đinh của Đinh Hoàn (hoàng – vua ?).
Với tư liệu mới tìm
được thì Thái hậu Dương vân Nga của nhà Đinh lại chính là con gái
của Dương tam Kha , người đã đoạt ngôi vua của nhà Ngô như thế nhà Ngô
và nhà Đinh của Đinh Hoàn trong Việt sử chỉ là 1 và kế sau triều
đại này là triều đại của Dương tam Kha- Dương bình vương không phải là
triều Lê của Lê Hoàn như sử hiện nay viết , hệ quả đương nhiên không
hề có vụ án lịch sử nhơ nhớp Thái hậu Dương Vân Nga đồng loã đem ngôi vua của con trao cho tình nhân là tướng quân Lê Hoàn lập nên nhà Tiền Lê .
Do sự đồng nghĩa giữa
từ Châu biến âm của ‘chiêu’ chỉ nơi mặt trời lặn và từ ‘Đinh’ chỉ sự
định - tĩnh không đổi Dịch tượng của phương Tây ; Sử thuyết Hùng Việt
cho nhà Bắc Châu là triều Đinh của Đinh Hoàn chính xác lả Đinh hoàng ,
Triều tiền Ngô là sự sai lầm lớn của sử Việt .
Năm 577 Châu vũ đế diệt
Tề làm chủ cả miền Bắc Thiên hạ được coi như cái mốc thời Trung hoa
phục hưng , chấm dứt thời nô lệ rợ Thát . Ở Việt Nam triều tiền
Ngô sau chiến thắng Bạch Đằng năm
938 cũng được coi là thời kì mở đầu cho nền độc lập sau ‘ngàn năm’
Bắc thuộc . Trận đánh Bạch đằng giang năm 938 là sự lầm lẩn của sử
gia Việt .., sự thực năm 928 nước
Sở (thời Thập quốc Hoa Nam) mở cuộc đại tấn công Đại Việt – Đại Hưng bằng
đường thủy , Ngô vương Lê Nghiễm cho
quân mai phục ở 1 nhánh của sông Tứ
(Châu giang) gần thành phố Triệu khánh ngày nay , thủy quân Đại Việt Đại Hưng nghênh chiến gỉa
thua dụ cho thủy quân Sở đuổi theo , khi nước ròng thuyền chiến của
Sở mắc vào những giây xích sắt chăng ngầm dưới lòng sông (cọc nhọn ?) bị đội quân cung thủ của nhà Hậu Ngô chờ sẵn
tổng tấn công , quân Sở đại bại ... ; Chuyện quân của Ngô vương Lê Nghiễm đánh bại quân Sở éo le thay bị Sử gia Việt Nam mắt nhắm
mắt mở lộn ngược thành ra ...Ngô
Quyền đánh bại quân Nam Hán ( chính là Đại Hưng) trên sông Bạch Đằng ... , hay thật ...vua ta đánh
bại quân ta à ?.
Sử thuyết Hùng Việt
cho là không có nhà Tiền Ngô mà thay vào là triều Đinh của Đinh Hoàn
từ năm 577 tới năm 581, Sử thuyết Hùng Việt gọi là triều Việt Cửu của
chi tộc Cửu Việt ; cửu là số 9
dịch tượng chỉ phương Tây (tư liệu
chép sai thành Qùy Việt hay Qủy Việt). Tên gọi Tiền Ngô là chỉ nước Ngô của Ngô vương Quyền hay Ngô tôn Quyền
thời Sử Tàu gọi là ‘Tam quốc’ , Sử thuyết Hùng Việt gọi là thời
‘Lưỡng triều kháng Ngụy’ hay thời ‘Thù trong giặc ngoài’ trận Bạch
đầng giang thời Tiền Ngô chính là trận Xích Bích , nhân vật Hoằng
Tháo chính là Tào Tháo khi còn làm tướng Đông Hán (Không phải Nam Hán) .
Kế theo là Triều đại
của Dương bình vương – Dương tam Kha ,trong sử Trung hoa là nhà Tùy từ năm
581 tới 618 . Đây là triều đại của chi Tủy Việt hay Thủy Việt gốc gác ở nước Sở thời Xuân thu chiến
quốc . Triều Tùy tuy ngắn ngủi nhưng khiến diện mạo Thiên hạ thay đổi
cực lớn :ngoài việc Thống nhất Bắc – Nam thu thiên hạ về 1 mối , nhà
Tùy chia lại Thiên hạ lập ra 9 khu giám sát , đào vận hà nối thông
Bắc Nam , lần đầu tiên thực hiện chế độ khoa cử để chọn người bổ
làm quan ...tức đã đi 1 bước dài trong việc kiến tạo diện mạo Trung
hoa mới .
Triều Đường của Lí
Uyên chính là triều Lí công Uẩn I của sử Việt kéo dài từ năm 618
tới 907; là triều đại huy hoàng bậc nhất trong lịch sử Thiên hạ do
người chi Đường Việt hay Việt Thường kiến lập . Thế giới biết đến
và nể phục Thiên hạ cũng từ đời Đường này . Âm vang Đường nhân -
Đường quốc - Đường triều - Đưỡng ngữ - Đường thi .v.v. còn vọng tới
tận ngày nay . Có điều ít người biết : phát âm cái gọi là từ Hán Việt của người Việt Nam hiện
nay chính là Đường âm , cũng có người gọi đấy là phát âm của tiếng Trung hoa cổ xưa ???.
Năm 907 tới 971 (chính thức xưng vương lập ra nước Đại Việt năm 917) là niên đại nước Đại Việt thủ đô là thành Phiên ngung cũng đọc là Phiên ngu ,
cũng là thời của anh em Lê Ẩn – Lê
Cung (Lưu Ẩn – Lưu Cung theo sử Tàu) . Sử Việt gọi là nhà Hậu Ngô của Ngô xương Văn - Ngô
xương Ngập , Sử thuyết Hùng Việt gọi là Lí công Uẩn thứ II , theo tư
liệu lịch sử Trung hoa Ngô xương Văn thực ra là Ngô Văn Xương tức Ngô
vương ( văn xương thiết vương) , Ngô vương hay Ngu vương nghĩa là vương
của nước thủ đô ở thành Phiên Ngu hay Phiên Ngô Quảng Châu ngày nay .
Xin ngoài lề 1 chút ;
thành Quảng châu xưa còn gọi là Ngũ dương thành , phân tích theo Dịch
tượng ; Ngũ là Ngũ lĩnh số 5 là số trung tâm của Lạc thư (đồ) trong
lãnh vực địa lí nghĩa là trung tâm , dương là Dịch tượng của phía
Đông mặt trời mọc (dương); Ngũ dương thành nghĩa là thành trung tâm phía
Đông , Thực ra Dương thành là thành phố đã có từ buổi bình minh của
Thiên hạ hơn 4000 năm trước ,đấy chính là kinh đô của nhà Hạ trung hưng
. Người HẸ tụ cư ở đây chính là con cháu cư dân kinh đô nhà HẠ xưa ,sợ
có ai đó nhận ra phía đông ở đây là miền Đông Giao chỉ – chỗ giữa tức
vể Địa lí lấy Giao chỉ là trung tâm của Thiên hạ nên đám con ‘giời...ơi’ đổi chữ tráo nghĩa
biến ra thành phố 5 con dê , để củng cố ý tưởng quái gở này họ phịa
ra truyện ngàn năm trước 5 con dê thần được Tiên đem xuống trần cứu
nguy cho thành phố và để như thật họ cho nặn tượng 5 con dê to tổ bố
làm biểu tượng ... thực nhục nhã biết
mấy cho dân thành dê ...
Xin trở lại ...
Lịch sử Hùng Việt có
3 triều Đinh :
*Triều Đinh của Đinh
tiên hoàng trong sử Trung hoa là triều Tần thủy hoàng thời cổ sử .
*Triều Đinh của Đinh Hoàn là triều Bắc Châu từ Châu vũ đế về sau
trong sử Trung hoa .
*Triều Đinh của Đinh bộ
Lĩnh là tên khác của triều Lí
nước Đại Hưng – Đại Việt .
Nhà Đinh của Đinh bộ
lĩnh được cho khởi đầu năm 968 nhưng thực lạ mãi 2 năm sau vào năm 970 vua ‘Đinh’ mới định niên hiệu
là Thái bình nguyên niên tức năm khởi đầu triều đại .
Theo Sử thuyết Hùng
Việt thì Đinh bộ nghĩa là phần đất phía Tây , lĩnh là thủ lĩnh ,
‘Đinh bộ lĩnh’ là danh xưng của người cai quản phần đất phía Tây đất
nước không phải họ và tên , sử gia Trần trọng Kim thì cho Đinh là họ
còn bộ lĩnh là chức quan không
phải tên gọi .
Người đứng đầu đất
phía Tây lên ngôi vua đặt niên hiệu Thái bình nguyên niên năm 970 cũng chính
là ông Lí làng Diên uẩn tức Lí công Uẩn thứ III. (Xin đọc thêm trong trang dòng Hùng Việt ) là vua khởi dựng triều Lí trong sử
Việt .
Đinh bộ Lĩnh và Lí
công Uẩn chỉ là 1 nhân vật lịch sử tên thật là Lí Tiến người Giao chỉ làm quan điện tiền chỉ huy sứ
và cũng là phò mã của vua nước Đại Việt - Đại Hưng ở thành Phiên
ngô . Nước đại Việt chia làm 2 vùng địa lí Đông là Quảng đông ngày
nay và Tây là Giao chỉ xưa . Khi sức ép của quân Tống lên đến đỉnh
điểm , biết khó giữ được kinh đô Phiên ngu triều đình Đại Hưng tính
kế lâu dài ; năm 968 đã cử tướng điện tiền chỉ huy sứ Lí Tiến sang
làm Toàn quyền cai quản phía Tây đất nước tức miền Giao chỉ để
chuẩn bị sẵn cho việc dời đô tiếp tục chiến đấu kháng Tống , chính
do vậy mà có danh xưng Đinh bộ lĩnh . Năm 970 – 971 khi kinh đô phía đông
là thành Phiên Ngu rơi vào tay giặc Tống vua không dời đi mà ở lại
chiến đấu và bị bắt mang về Tống quốc thì Đinh Liễn mới chính thức
lên ngôi vua Đại Hưng khởi đầu triều
đại phía Tây tiếp nối triều phía Đông , sau nước Đại Hưng trên đất Giao chỉ lấy lại quốc hiệu cũ là
Đại Việt, kinh đô ban đầu ở Hoa lư Ninh bình ngày nay .
Đền thờ vua Đinh ở Ninh
bình là đền thờ Đinh Liễn tức Đinh Lí Tiến cũng là Lí Công Uẩn –
Lí Thái tổ . Đền thờ vua Lê là nơi thờ Lí Đức Chính cũng là Lê Đại
Hành - Lí Thái Tông vua thứ 2 của triều Lí .., xin dẹp dùm việc tượng thái hậu Dương vân Nga thờ ở đền vua này
nhưng quay mặt sang đền vua kia đi (chồng trước chồng sau) ..., Dương vân Nga - Dương ngọc Nga -
Dương thị Nga là thái hậu triều Đinh Hoàn trước con của Dương tam Kha
không phải triều Đinh bộ Lĩnh này .
Có chi tiết đáng lưu ý
: Các vua họ Lê hay Lí nước Đại Việt nhận mình thuộc dòng dõi Lí
Bôn tư liệu Tàu gọi là Lưu Bang .
Sử chép rõ Lưu Bang quê
ở đất Phong làm Đình trưởng ở Tứ thượng , tứ thượng thiết tượng
...thì ra chính là Tượng quận thời Tần . Đất Phong gần kề Tượng
quận thì chỉ có thể là miền Phong châu nước Việt .
2 vua Lê Ẩn – Lê Cung là
con của Lê Khiêm , tư liệu khác viết là Lưu tri Khiêm thứ sử Phong châu
đời Đường , lưu tri thiết Lê , người
Tàu viết Lê thành họ Lưu cho có vẻ ...giống dòng dõi họ Lưu của Lưu
Huyền và Lưu Tú là 2 vua Hán vốn
xuất thân là tướng cướp Lục lâm thảo khấu .
Phong châu thời Tùy đổi
thành Hưng châu phải chăng chính vì danh xưng của Lí Bôn – Lưu Bang trong
Hùng phả là Hùng Trịnh vương Hưng đức lang mà vua Tùy đổi Phong châu
thành Hưng châu và anh em vua Lê thành Phiên ngu đã lấy tên quê gốc Hưng
châu của tổ tiên làm quốc hiệu đổi
Đại Việt thành Đại Hưng , sử Tàu ...hô biến ...Hưng thành Hán , nước Đại
Hưng thành nước Nam Hán lừa mọi người ?.
1 phần đất Hưng châu
vẫn còn trong ‘địa bạ’ nước Việt thời cận đại gọi là tổng Hưng hóa .
Theo phép phiên thiết
Hán văn Lí Tiến thiết Liễn nên Đinh bộ Lĩnh cũng là Đinh Liễn nghĩa là ông Liễn đất phía Tây .
Là người làng Diên Uẩn
nên Lí Tiến còn được gọi là Lí công Uẩn nghĩa là ông họ Lí làng
diên Uẩn .
Theo tư liệu Trung hoa
thì Công Uẩn đã gỉa xưng họ Lê để nhận quyền lưu hậu từ các vua họ Lê
(Lưu) nước Đại Việt – Đại Hưng thành Phiên Ngu , 2 đời vua đầu nhà Lí
là Công Uẩn và Đức Chính mang họ Lê cho tới đời thứ 3 là Nhật Tôn
mới ‘tiếm xưng’ là hoàng đế thứ 3 triều Lí nước Đại Việt và truy
phong cha là Lí thái tông , ông nội là Lí thái Tổ , phải chăng cũng chính
vì thế mà Lí đức Chính còn tên khác là Lê đại Hành ...khiến sử
Việt rối bời .
Tóm lại : triều Lí
Việt nam khởi đầu từ năm 970 và kết thúc năm 1225 không phải năm 1010 như sử hiện nay chép
và là triều đại tiếp nối triều
Đại Việt - Đại Hưng phía Đông của các vua họ Lê (sử Tàu biến ra Lưu) đô ở thành Phiên Ngung hay Phiên ngu .
Với sự liên tục của 2
triều đại Đông và Tây nước Đại Việt - Đại Hưng xin các đấng con ‘giời
...ơi’ đừng nói đến chủ quyền lịch sử trên biển Nam Trung quốc nữa ,
nước duy nhất có thể nhận chủ quyền lịch sử trên vùng biển ấy là
nước Đại Việt Đại Hưng .
Chính sách vở thời
Mãn Thanh triều đại sau cùng của Đại Hãn quốc của các vị cũng gọi
vùng biển ngoài khơi Bắc Việt Nam nơi có quần đảo Hoàng sa là Giao
chỉ dương và vùng biển miền Trung Việt nơi có quần đảo Trường sa là
La hải (La là tên gọi thời xưa của cư dân miền trung Việt
Nam).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét