Trong Miếu bố trí các gian
thờ :
1. Gian giữa thờ Phục Hy tại chính
trung. Vị tả nhất (vị trí bên trái kề chính trung) thờ Thần Nông. Vị hữu nhất
(vị trí bên phải kề chính trung) thờ Hoàng Đế. Vị tả nhị thờ Đường Nghiêu. Vị hữu
nhị thờ Ngu Thuấn. Vị tả tam thờ Hạ Võ. Vị hữu tam thờ Thương Thang. Vị tả tứ
thờ Chu Văn. Vị hữu tứ thờ Chu Võ.
2. Gian tả nhất (gian bên trái kề chính gian) thờ các vị vua khai sáng nuớc Việt: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Sĩ Vương, Đinh Tiên Hoàng.
3. Gian hữu nhất (gian bên phải kề chính gian) thờ vua Lê Đại Hành và 3 vị vua triều Lý là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông.
4. Gian tả nhị thờ 3 vị vua triều Trần là Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông.
5. Gian hữu nhị thờ 4 vị vua triều Lê là Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Lê Trang Tông, Lê Anh Tông.
Ngoài ra đôi nhà Tả Vu và Hữu Vu thờ các vị tướng Trung Hoa lẫn Viện Nam.
Tả Vu thờ 6 danh tướng Trung Hoa là Phong Hậu, Cao Dao, Long Bá Ích, Phó Duyệt, Thái Công Vọng, Thiệu Mục Công Hồ; 8 danh tướng Việt Nam là Nguyễn Bặc, Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, Trương Hán Siêu, Nguyễn Xí, Lê Niệm, Hoàng Đình Ái.
Hữu Vu thờ 8 danh tướng Trung Hoa là Lực Mục, Hậu Quỳ, Bá Di, Y Doãn, Chu Công Đán, Triệu Công Thích, Phương Thúc, Hồng Hiến; 7 danh tướng Việt Nam là Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Đinh Liệt, Lê Khôi, Trịnh Duy Thoan, Phùng Khắc Khoan.
2. Gian tả nhất (gian bên trái kề chính gian) thờ các vị vua khai sáng nuớc Việt: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Sĩ Vương, Đinh Tiên Hoàng.
3. Gian hữu nhất (gian bên phải kề chính gian) thờ vua Lê Đại Hành và 3 vị vua triều Lý là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông.
4. Gian tả nhị thờ 3 vị vua triều Trần là Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông.
5. Gian hữu nhị thờ 4 vị vua triều Lê là Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Lê Trang Tông, Lê Anh Tông.
Ngoài ra đôi nhà Tả Vu và Hữu Vu thờ các vị tướng Trung Hoa lẫn Viện Nam.
Tả Vu thờ 6 danh tướng Trung Hoa là Phong Hậu, Cao Dao, Long Bá Ích, Phó Duyệt, Thái Công Vọng, Thiệu Mục Công Hồ; 8 danh tướng Việt Nam là Nguyễn Bặc, Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, Trương Hán Siêu, Nguyễn Xí, Lê Niệm, Hoàng Đình Ái.
Hữu Vu thờ 8 danh tướng Trung Hoa là Lực Mục, Hậu Quỳ, Bá Di, Y Doãn, Chu Công Đán, Triệu Công Thích, Phương Thúc, Hồng Hiến; 7 danh tướng Việt Nam là Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Đinh Liệt, Lê Khôi, Trịnh Duy Thoan, Phùng Khắc Khoan.
Trích thông tin từ internet.
Khi sắp xếp thờ kính như vậy
là nhà Nguyễn đã thừa nhận ‘Ngũ đế’ và Tam đại trong sách sử Trung
hoa là tiên đế của nước Việt Nam ngày nay .
Tham chiếu 1 số tư liệu cổ
Trung hoa về thời Thái cổ của Thiên hạ .
·
Tam Hoàng
Theo Sử ký Tư Mã Thiên và Nghệ văn
loại tụ - Xuân Thu vĩ
Thiên Hoàng • Địa Hoàng
• Nhân Hoàng/Thái Hoàng
• Ngũ
đế
Theo Sở Từ và Lễ ký nguyệt lệnh
Thái Hạo • Viêm Đế - thần Nông • Hoàng Đế
• Thiếu Hạo • Chuyên Húc.
Thực ra người xưa đã dựa trên
Dịch học để hư cấu thời qúa khứ xa xôi không thể biết của cộng đồng
mình , Tam hoàng Ngũ đế chính là Tam tài Ngũ hành của Dịch học vận
dụng vào phương diện Lịch sử .
Tài Thiên -Tài Địa -Tài Nhân
thành ra Thiên hoàng - Địa hoàng và Nhân hoàng .
Về Ngũ hành :
Đối chiếu với truyền thuyết
dân gian Việt Sử thuyết hùng Việt hiệu chỉnh về Ngũ đế :
- Phục Hi - hành Mộc là tổ phụ tộc người phía Đông ngày nay , truyền thuyết Việt gọi là Thái hạo -Thái Cao – vua cả cũng là Động đình hồ quân Hậu duệ thời lập nước họ Hùng là Long nữ .
- Thần Nông hay Thần nông - Viêm đế hành Hoả là tổ phụ tộc người ở về phía Xích đạo viêm nhiệt , truyền thuyết gọi là Thái Viêm , đặc biệt lưu ý :Thần nông Viêm đế không phải là Viêm đế mà là tổ 3 đời của anh em Hoàng đế hay đế Hoàng màu vàng và Viêm đế tức đế hướng viêm nhiệt , theo phép phiên thiết Hán văn : viêm nhiệt thiết Việt vì thế mà truyền thuyết Việt nhận thần Nông là cao tằng tổ của mình .
·
Thiếu Hạo –
hành Thổ (theo Dịch học Hùng Việt) Tổ phụ tộc người phía Tây ,
Truyền thuyết Việt gọi là Thái Khương hay Thái Khang hậu duệ thời
lập quốc là Xi vưu thủ lãnh của Cửu Lê ở phía Tây Giao chỉ rất có
thể là người Khơme ngày nay .
- Chuyên Húc – hành Thủy Tổ phụ người phía Bắc ngày nay tức hướng Nam hướng nước xưa theo Dịch học , Truyền thuyết Việt gọi Thái Tiết ( thực ra là tất tức hết hay Tiếp chỉ tiếp giáp) hay Tiên đế là hậu duệ là Hoan đâu là ông tổ trực tiếp chi Tam Miêu – Hmong .
- Hoàng Đế - đế màu Vàng - hành Kim (theo Dịch học Hùng Việt) , (kim ═ vàng) sắc trung trong Ngũ sắc , đế Vàng là anh em 1 cha với đế Viêm suy ra Hoàng đế cũng là cháu 3 đời của Thần nông Thái Viêm đây chính là đế Minh trong truyền thuyết lịch sử Việt , đế Hoàng lập hữu Hùng quốc hay bộ (10-5) nên là vị đế thực sự đầu tiên đồng thời là Thái công tổ phụ sau cùng chấm dứt thời liên minh bộ lạc. Bộ (10 – 5) trung tâm của Hà đồng nghĩa với ‘chỗ Giữa - Giao chỉ’ bị giới sử học lầm lẫn thành bộ 15 ...rồi thấy không hợp lí đổi thành ...nước ‘ta’ do 15 bộ hợp thành.
Hoàng đế ban đầu thống nhất 3
bộ tộc của các thủ lãnh Hoàng đế - Xi vưu và Viêm đế sau mở
rộng về phía Nam xưa (nay lộn ngược
thành Bắc) thống nhất với bộ tộc của Hoa Đâu lập nên Hữu Hùng quốc
tức nước của họ Hùng .
Nước họ Hùng của đế Hoàng – Vàng có lãnh
thổ là ‘chỗ giữa’ tư liệu viết bằng chữ Nho biến thành ‘Giao chỉ’, lãnh thổ Giao chỉ chia làm 2 phần , phần
ở về hướng Xích đạo gọi là Cao Giao , hướng ngược lại gọi là Giao Thường
, tư liệu Trung Hoa gọi là đất Đào và đất Đường hay Thường , 2 thủ
lãnh của 2 miền gọi là ông Cao Giao và ông Giao Thường , kinh đô ban
đầu của đế Hoàng đặt trên đất Đào hay miền Cao Giao .
Lí do của việc miếu Lịch đại
đế vương nhà Nguyễn chỉ thờ ’tam đế’ Phục hy Thần nông và Hoàng đế
mà bỏ không thờ Thiếu hạo và đế Xuyên húc còn là điều bí ẩn chưa
thể lí giải .
Đế Hoàng màu Vàng trước là
Thái Công thủ lãnh thời liên minh Thị tộc hay Bộ lạc tức thời trị
vì của ngài là thời bản lề lịch sử ; cộng đồng tiến từ chế độ
thị tộc sang hình thức tổ chức xã
hội cao hơn gắn kết chặt chẽ hơn , kỉ cương hơn .
Hoàng đế thăng hà đế Nghi sử
Trung Hoa gọi là đế Đường Nghiêu kế vị , thời điểm này đánh dấu sự
ra đời thực sự của 1 vương quốc chấm dứt thời thị tộc ngàn vạn năm
trước .
Nhà Nguyễn công nhận và thờ
các đế thời sơ sử quốc gia tân lập : đế Nghi – Đường Nghiêu , Ngu Thuấn
và Đại Vũ như là tiên đế nước Việt .
Vua quan nhà Nguyễn có thông
tin đủ để làm như thế .
Đế Nghi - Đường Nghiêu trước
mang tước Đường vương hay Thường vương có tên ‘cúng cơm’ là ông Giao Thường và như đã viết ông
Giao Thường là người đứng đầu miền Giao Thường tức miền Nam đất ‘Giao
chỉ – chỗ Giữa’ xưa (nay lộn ngược gọi là Bắc) . Khi lên kế ngôi ông
dời kinh đô từ đất Đào về đất
Đường nên truyền thuyết dân gian tôn ngài làm “ Nam bang triệu tổ” khởi đầu thời Nam
triều .
Đế Đường Nghiêu và đế Thuấn
đã có công mở rộng đất nước về phía Nam xưa đưa đất Nam Giao nhập
vào với Giao chỉ nên đế Thuấn còn có tên dân giả là ông Diêu trọng
hóa ; trọng chỉ con trai thứ 2 trong gia đình , Diêu là biến âm Giao , cụm từ Giao hóa chỉ công trạng của
đế thuấn đem đất phía Nam nhập vào với ‘Giao chỉ – chỗ Giữa’ tức mở
rộng lãnh thổ quốc gia về phía Nam xưa , Sử thuyết Hùng Việt cho đất
Nam Giao là Quảng Tây ngày nay .
Đế Ngu Thuấn truyền ngôi cho
Đại Vũ ...lịch sử không có đế Vũ ....thực ra Vũ chỉ là tam sao thất
bản từ Vua tiếng Việt , đại Vũ là Vua Lớn .
Lịch sử có 1 thời bản lề là
thời của Hùng Vũ hay Hùng Vũ vương đánh dấu bước chuyển mình từ
liên minh thị tộc lên thành 1 quốc gia sơ khai , thời của Đại Vũ là
thời bản lề kết thúc thời quốc gia tân lập bắt đầu vương triều đầu
tiên của Thiên hạ sử gọi là triều đại
Hạ hay nhà Hạ .
Gọi Đại Vũ là Hạ Vũ là sai
lầm . Đế Khải mới là vua lập nên vương triều Hạ và tôn cha là vương
tổ triều đại , thực ra Đại Vũ – Vua Lớn là vương tổ của vương quốc
Thiên hạ tức tổ của mọi vương triều chứ không riêng gì nhà Hạ . có
điều ít người biết Đại Vũ còn có tên là Cao Mật , Cao Mật là tên
Việt ngữ hoàn toàn ; cao là cao cả
chỉ thủ lãnh , Mật chỉ là kí âm sai của Một số đếm đầu tiên trong
tiếng Việt , Cao Một vua đầu cũng chính là Đại Vũ vua tổ các vương
triều trong Thiên hạ . Hạ là tên mùa nóng nhất trong 4 mùa , Việt ngữ là
Hè , nhà Hạ cũng là nhà Hè , dân Đông Hạ – Hè là người Hẹ ngày nay .
Nhà Thương kiến lập bởi vua
Thành Thang thường gọi là Thương Thang , thương - thanh Việt ngữ là màu
Xanh , màu xanh theo Dịch học là màu của phương Đông - mùa Xuân (mời
đọc bài Trung hoa Ngũ hành sử) .
Đặc điểm triều Thương là rất nhiều lần dời đô nên dân gian Việt nam có
từ ‘lang Thang’ nghĩa là rày đây mai đó không ở chỗ nào nhất định ,
lang Thang cũng chính là cách gọi các vua nhà Thương , lang là vương
là thủ lãnh , thang chỉ vua Thành Thang . Lang nghĩa là thủ lãnh là
từ Việt hoàn toàn bên Tàu không hề có nên ‘lang Thang’ đương nhiên là
vua Việt .
Nhà châu vương tổ là Văn vương
, sử Tàu gọi là nhà Chu là sai hoàn toàn , châu biến âm của Chiêu
nghĩa là phía mặt trời lặn tức phía Tây , gọi là nhà Thương vì đất
chính nằm ở phía Đông bản đồ ‘Thiên hạ’ , ngược lại nhà Châu – Chiêu nằm
ở phía Tây Thiên hạ màu trắng ,
châu là châu ngọc sáng lóng lánh , chiêu cũng là sáng làm cho sáng ra
còn chu là màu đỏ chẳng dính gì đến sáng bóng cả . Vương đồng
nghĩa với lang , Văn vương cũng là Văn lang hay lang Văn tức vua Văn ,
nước của vua Văn gọi là nước Văn Lang . Điều rất quan trọng trong di
ngôn của tiền nhân người Việt là ....
“nước Văn lang bắc giáp Động đình hồ , Nam giáp Hồ Tôn , Tây
giáp Ba thục và đông giáp Nam hải “...xét theo địa danh ngày nay thì
lãnh thổ nướcVăn lang gồm các tỉnh Quý châu , 1 phần Hồ Nam , Quảng
Tây , Vân Nam Trung quốc cộng với Bắc và Bắc Trung Việt ngày nay .
Châu Vũ vương mới là vua kiến
lập nhà Châu và tôn vinh cha là Châu Văn vương làm vương tổ của triều
đại ,từ đấy nước Văn lang trở
thành Trung tâm của Thiên hạ tức Trung hoa , theo 1 số tư liệu thì vợ
cuả Châu vũ vương là bà Đỗ thị Ngoan tức Đoan trang công chúa (đỗ
ngoan thiết đoan) giỗ là ngày 5
tháng 5 trong dân gian có câu :
Tháng năm ngày tết Đoan dương ,
là ngày giỗ mẹ Việt Thường Văn lang .
Xét tới đây thì thấy nhà
Nguyễn đã đủ chứng lí cho việc thờ kinh các vua Ngũ đế và Tam đại
Trung hoa hay Trung Hạ ở miếu Lịch đại đế vương .
Vương triều Nguyễn là vương
triều sau cùng của Việt Nam , về mặt thời gian là vương triều gần
ngày nay nhất nên còn lưu lại nhiều bằng chứng cho thấy sử quan của
mình .
Không phải chỉ riêng nhà
Nguyễn , các triều trước cũng nhìn nhận như thế .
Nhà Lí
Nhà Lí với chiếu dời đô ...” Xưa
nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần
dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như
thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời,
trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận
nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng,
coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô
nơi đây...”
Rõ
ràng nhà Lí coi các vua Thương Châu là minh quân tiền triều phải noi theo .
Nhà Trần
Văn bia
Thái thượng hoàng Trần Minh Tông đi đánh tên giặc Bổng chúa Ai Lao đã cho
khắc vào núi có đọan :
...“Đời vua
thứ sáu triều Trần nước Hoàng Việt, Thái thượng hoàng đế Chương Nghiêu Văn Triết
nhận được mệnh trời, làm chủ cõi Trung hạ , khắp trong đất ngoài bể không ai
không thần phục...” .
Ngoài ra
:
Thời Trần,
các Hoàng đế nhường ngôi cho con về làm Thái thượng hoàng, thường được đặt tôn
hiệu có tên của vua Nghiêu, với ngụ ý noi theo đức tốt của minh quân đời
trước
·
Trần Thái
Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng
Hoàng Đế
- Trần Thánh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế
- Trần Nhân Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Hiến Nghiêu Quang Thánh Thái Thượng Hoàng Đế
- Trần Anh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái Thượng Hoàng Đế
- Trần Minh Tông, khi làm Thái thượng hoàng có tôn hiệu Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng Hoàng Đế .
Nhà Hồ
Hồ
qúi Ly công khai nhận mình là dòng dõi Ngu Thuấn và đặt tên nước là
Đại Ngu .
Nhà Lê ,
Lê thái tổ có bài thơ Thân chinh Phục Lễ châu
Đèo Cát Hãn , trong đó có đoạn
...”Di địch là nỗi lo nơi biên giới, từ xưa đã có chuyện này rồi.
Đời nhà Hán thì bọn Hung Nô, đời nhà Đường thì rợ Đột Quyết, các rợ mán ở vùng
Mường Lễ nước Việt ta cũng kiểu như vậy. Mới đây, vì chính sự nhà Trần, nhà Hồ
suy yếu, các bè tôi nơi phên dậu trở nên ương ngạnh. Cát Hãn nhờn theo thói cũ
cứ như thế không thôi. Nay ta đem quân đi chinh phạt,thủy bộ cùng tiến công, chỉ
một trận đã dẹp yên được. Nhân đây làm một bài thơ khắc vào đá để răn các tù
trưởng rợ đời sau ngang ngạnh với giáo hóa, thơ rằng...”:
Nhà Hán ở đây thực ra là
triều Đại Hưng của ông Lí Bôn – Lưu Bang .
Khi gọi bọn giặc Đèo cát hãn
là Di Địch tức đương nhiên nhận mình là Trung hoa , nếu coi giặc Đèo
cát hãn cùng loại với Hung Nô - Đột Quyết thì không thể nói khác
...nhà Lê tự nhận là ‘hậu thân’ của đại Hưng (lầm lẫn thành Hán) đại
Đường ...
Xin nhắc lại 1 phần bài viết
trước :
Sự nhìn nhận về lịch sử
Việt Nam của Sử thuyết Hùng Việt rất gần với sự nhìn nhận của vua
quan triều Nguyễn .
Ngoài việc noi theo các ‘tiên
đế’ đúc Cửu đỉnh để khẳng định vị thế làm chủ ‘Thiên hạ’ .
Nhà Nguyễn còn cho dựng miếu ‘Lịch đại đế vương’ để thờ kính tiền nhân .
Chiếu chỉ đúc đỉnh ghi rõ: “Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ quý
trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại lấy kim loại do các quan mục
bá chín châu dâng cống, đúc chín cái đỉnh để làm vật báu truyền lại đời sau.
Quy chế điển lễ ấy thực to lớn lắm! Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường
lối rõ ràng. Nay muốn phỏng theo đời xưa, đúc chín cái đỉnh để ở nhà Thế miếu…”.
Nhà Nguyễn còn cho dựng miếu ‘Lịch đại đế vương’ để thờ kính tiền nhân .
Gian giữa chính là thờ các
vua Hùng của thời kì Hùng quốc hay nước họ Hùng mà lịch sử ‘Thiên
hạ’ gọi là thời Tam hoàng Ngũ đế Tam đại .
Trừ vài lầm lẫn những gian
khác thờ các đấng minh quân và anh hùng hào kiệt cả 2 thời kì Hùng quốc và nước Việt .
Lịch đại đế vương không hề
thờ ông vua Hán vua Tàu hay vua Trung hoa nào cả , Nước Hán đầu
tiên của Hán Canh thủy đế do lục lâm thảo khấu dựng nên vào khoảng
năm 23 – 25 , trước đó không hề có vua Hán và lịch sử Hán quốc còn
nước Trung hoa mới lập năm 1911 nếu thờ tiên đế Trung hoa chắc là phải
thờ trước là ông Tôn Dật Tiên sau là ông Mao …
Có tư liệu chép thời Nguyễn
người Việt được gọi là Hán nhân , người Tàu gọi là Thanh nhân ; Thanh
nhân là người Mãn Thanh nói trắng ra là thế …chẳng có Trung hoa trung
hiếc gì , còn …Hán nhân chỉ là kết quả của sự đểu cáng đổi chữ
tráo nghĩa ; sự thực người Việt hiểu theo ngôn ngữ ngày nay gọi
là ‘Hưng nhân’ vì trước khi vua Nhật Tôn xưng là hoàng đế thứ 3 nhà
Lí và đổi tên nước thành Đại Việt thì nước ta quốc hiệu là
Đại Hưng không phải là Đại Cồ Việt như sử hiện nay viết , Hưng biến
thành Hán là khác đi 1 trời 1 vực …ta không còn là ta nữa. (về nước
Đại Việt – Đại Hưng – Đại Việt xin các bạn tìm đọc trong Web – Blog
).
Sai lầm đáng trách của vua
quan nhà Nguyễn là vị trí thờ Hùng vương trong miếu Lịch đại đế vương
. Quốc tổ không thể thờ ở gian tả nhất , cho dù nhìn nhận lịch sử thế
nào đi nữa thì cũng phải thờ Hùng vương quốc tổ ở gian Giữa ít ra
là ngang hàng với Hoàng đế .
Tóm lại : không
riêng gì triều Nguyễn việc nhìn nhận các vua thời Ngũ đế và Tam đại
là các minh đế tiền nhiệm là sự nhìn nhận nhất quán trong suốt kỉ
nguyên Đại Việt . Không hiểu tại sao từ khi người phương Tây đến và du nhập vào
ta cái gọi là khoa học lịch sử thì bỗng nhiên ta biến thành người
khác , các minh đế tiên quân thời Ngũ đế – Tam đại vốn được thờ ở
miếu Lịch đại đế vương chỉ trừ Thần Nông Viêm đế còn lại tất cả ...bỗng
hóa ra vua giặc .
Thực là buồn , cứ cái kiểu
này không biết đến bao giờ mới biết đích thực mình là ai trong dòng
lịch sử thế giới .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét