Miếu Lịch Đợi, tên đầy đủ dịch theo Hán tự là miếu Lịch Đại Đế Vương, đây là một công trình kiến trúc quan trọng được xây dựng vào thời nhà Nguyễn. Ngày nay, tên miếu đã trở thành tên con đường Lịch Đợi dài 1280m, chạy từ đường Bảo Quốc (hay còn gọi là đường Báo Quốc) đến đuờng Tôn Thất Tùng, thuộc địa bàn Phường Đúc, thành phố Huế. Giá trị lịch sử
Miếu Lịch Đợi là ngôi miếu thờ các đời đế vương được dựng đầu tiên và độc nhất ở Việt Nam vào năm Minh Mang thứ tư, tức năm Quý Mùi 1823.
Theo sử sách triều Nguyễn còn ghi lại thì miếu Lịch Đợi là nơi “Thống kỷ các vị đế vương, ngưỡng mộ đức tốt của các đời trước”. Với ý nghĩa quan trọng “uống nước nhớ nguồn”, “chim có tổ, người có tông”, triều Nguyễn đã cho xây dựng công trình kiến trúc này để thờ các vị vua anh hùng từ Hồng Bàng trở về sau. Hằng năm, xuân thu hai kỳ đều tổ chức tế miếu Lịch Đợi vào ngày tân tháng trọng xuân (tháng 2 âm lịch) sau ngày tế đàn Xã Tắc, và ngày tân đầu tháng trọng thu (tháng 8 âm lịch). Năm Bính Tuất 1826, niên hiệu Minh Mạng thứ VII bổ sung quy định: năm có khánh điển (lễ lớn) thì hoàng đế thân chinh tế lễ, những năm khác, các hoàng tử đi khâm mạng (thay mặt vua). Ngoài ra, vào các dịp lễ tết đầu năm, mùng 5 tháng 5 âm lịch, vua phái một quan văn tam phẩm đi tế miếu Lịch Đợi.

Mặt tiền miếu Lịch Đợi. Tranh bút sắt: Nguyễn Thứ. Nguồn Phanxiphăng.
Kiến trúc tổng quan
Miếu Lịch Đợi hướng về phía nam, thuộc địa phận xã Phú Xuân. Trước đây, công trình này gồm một chính đường có 5 gian, đông vu và tây vu (hay còn gọi là Tả Vu và Hữu Vu) cũng có 5 gian. Xung quanh miếu xây tường thành bằng gạch, mặt trước vành tường ngoài dựng 4 trụ biểu, tạo thành 3 ngạch cửa. Mặt trước vành tường trong có trổ cửa chính bên trên có lầu, ngoài ra còn có phượng môn. Phía bắc tường miếu làm “tể sinh”, là nơi mổ vật hiến sinh để tế lễ.
Chi tiết kết cấu
5 gian của tòa nhà chính gồm:
1. Gian giữa thờ Phục Hy tại chính trung. Vị tả nhất (vị trí bên trái kề chính trung) thờ Thần Nông. Vị hữu nhất (vị trí bên phải kề chính trung) thờ Hoàng Đế. Vị tả nhị thờ Đường Nghiêu. Vị hữu nhị thờ Ngu Thuấn. Vị tả tam thờ Hạ Võ. Vị hữu tam thờ Thương Thang. Vị tả tứ thờ Chu Văn. Vị hữu tứ thờ Chu Võ.
2. Gian tả nhất (gian bên trái kề chính gian) thờ các vị vua khai sáng nuớc Việt: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Sĩ Vương, Đinh Tiên Hoàng.
3. Gian hữu nhất (gian bên phải kề chính gian) thờ vua Lê Đại Hành và 3 vị vua triều Lý là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông.
4. Gian tả nhị thờ 3 vị vua triều Trần là Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông.
5. Gian hữu nhị thờ 4 vị vua triều Lê là Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Lê Trang Tông, Lê Anh Tông.
Ngoài ra đôi nhà Tả Vu và Hữu Vu thờ các vị tướng Trung Hoa lẫn Viện Nam.
Tả Vu thờ 6 danh tướng Trung Hoa là Phong Hậu, Cao Dao, Long Bá Ích, Phó Duyệt, Thái Công Vọng, Thiệu Mục Công Hồ; 8 danh tướng Việt Nam là Nguyễn Bặc, Lê Phụng Hiểu, Tô Hiến Thành, Trần Nhật Duật, Trương Hán Siêu, Nguyễn Xí, Lê Niệm, Hoàng Đình Ái.
Hữu Vu thờ 8 danh tướng Trung Hoa là Lực Mục, Hậu Quỳ, Bá Di, Y Doãn, Chu Công Đán, Triệu Công Thích, Phương Thúc, Hồng Hiến; 7 danh tướng Việt Nam là Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão, Đinh Liệt, Lê Khôi, Trịnh Duy Thoan, Phùng Khắc Khoan.
Tất nhiên, hệ thống vua quan được tôn thờ trong miếu Lịch Đợi là do triều đình nhà Nguyễn chọn lựa, sắp xếp. Hiện trạng ngày nay
Duới triều Nguyễn, miếu Lịch Đợi thường xuyên được quan tâm, tu bổ. Đến năm 1945, triều Nguyễn sụp đổ, từ đó trở đi, miếu Lịch Đợi xuống cấp nhanh chóng. So với các công trình kiến trúc khác thì miếu Lịch Đợi nhỏ nhưng ý nghĩa và giá trị lịch sử thì không thể phủ nhận. Tuy nhiên ngày nay, ngôi miếu danh tiếng này chỉ còn trơ lại 4 bức tường đổ nát. Vùng đất ngày xưa ngôi miếu được dựng lên nay đã bị các hộ cư dân chiếm dụng. Chỉ còn đó một con đường với cái tên Lịch Đợi, để chỉ khu vực phía sau lưng nhà ga Huế.

Toà nhà chính gồm 5 gian, 2 chái của miếu Lịch Đợi. Tranh bút sắt: Nguyễn Thứ. Nguồn Phanxiphăng.
Ý của Văn Nhân
Đọc bài viết ta không tránh
khỏi ngỡ ngàng ...
Lịch đại thì người Việt bình
thường cũng biết là gì nhưng mới chỉ trăm năm mà ‘lịch đại’ biến
thành ‘lịch đợi’ thì thực ...không
còn nghĩa ngọn gì cả , trăm năm đã như thế huống hồ gì tư liệu lịch
sử ngàn vạn năm ? .
Sử thuyết Hùng – Việt chia lịch sử Thiên
hạ thành 2 phần :
*Thời kì HÙNG từ Tam hoàng
Ngũ đế cho đến nhà Tân của Vương Mãng đây cũng là thời cổ sử Việt
nam gọi là thời 18 Hùng vương.
Lục lâm thảo khấu đã diệt
Hùng quốc khi giết Vương Mãng – Hùng vương thứ 18 Hùng Duệ vương , Vong
quốc từ đấy người họ Hùng đoạ đày trong kiếp nô lệ cũng từ đấy .
*Thời kì VIỆT tính từ khi
Bắc Châu Vũ vương phục quốc , sử Việt nam là nhà Đinh của vua Đinh
Hoàn (trong bài gọi là Đinh tiên hoàng) ; ... “định phẩm phục chế triều nghi” tức về quốc thống coi như người Việt làm
lại từ đầu , tư liệu Thiên hạ viết nhà Bắc Châu dựa theo Châu lễ mà
thiết lập triều chánh tức mở ra 1 trời mới đất mới không hề kế
thừa triều trước của người Hán chẳng dính dáng gì đến nhà Châu Tam
đại .
Sự nhìn nhận về lịch sử Việt
Nam của Sử thuyết Hùng Việt rất gần với sự nhìn nhận của vua quan
triều Nguyễn .
Ngoài việc noi theo các ‘tiên
đế’ đúc Cửu đỉnh để khẳng định vị thế làm chủ ‘Thiên hạ’ nhà
Nguyễn còn cho dựng miếu ‘Lịch đại đế vương’ để thờ kính tiền nhân .
Gian giữa chính là thờ các
vua Hùng của thời kì Hùng quốc hay nước họ Hùng mà lịch sử ‘Thiên
hạ’ gọi là thời Tam hoàng Ngũ đế .
Trừ vài lầm lẫn những gian
khác thờ các đấng minh quân và danh nhân thời kì nước Việt .
Lịch đại đế vương không
hề thờ ông vua Hán vua Tàu hay vua
Trung hoa nào cả , Nước Hán đầu tiên của Hán Canh thủy đế do lục lâm
thảo khấu dựng nên vào khoảng năm 23 - 25 , trước đó không hề có vua
Hán và lịch sử Hán quốc còn nước Trung hoa mới lập năm 1911 nếu thờ
tiên đế Trung hoa chắc là phải thờ trước là ông Tôn Dật Tiên sau là
ông Mao ...
Có tư liệu chép thời Nguyễn
người Việt được gọi là Hán nhân , người Tàu gọi là Thanh nhân ; Thanh
nhân là người Mãn Thanh nói trắng ra là thế ...chẳng có Trung hoa
trung hiếc gì , còn ...Hán nhân chỉ là kết quả của sự đểu cáng đổi
chữ tráo nghĩa ; sự thực người Việt hiểu theo ngôn ngữ ngày nay gọi là ‘Hưng nhân’ vì trước khi vua Nhật
Tôn xưng là hoàng đế thứ 3 nhà Lí và đổi tên nước thành Đại Việt thì nước ta quốc hiệu là Đại
Hưng không phải là Đại Cồ Việt như sử hiện nay viết , Hưng biến thành
Hán là khác đi 1 trời 1 vực ...ta không còn là ta nữa. (về nước Đại
Việt - Đại Hưng – Đại Việt xin các bạn tìm đọc trong Web - Blog ).
Trung quốc ngày nay có 2 dòng
giống Hán .
*Người Hưng hay người Hoa hậu
duệ của Lí Bôn – Lưu Bang Hưng đế (kinh đô là thành Đại Hưng cũng gọi
là Trường an) bị bọn phù thủy hô biến Hưng →Hán
*Người Hãn tức con dân của
các đại hãn Mongoloid cũng là người Hán
Đúng là mập mờ đánh lận con
đen ...thế là Hoa - Hán hóa ra 1
nhà .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét