Câu
đối ở Đình Dương Lôi Tân Hồng – Bắc Ninh như
sau :
李核 出五蘝肇嗣和刀天 應瑞
Lý hạch xuất ngũ liêm, triệu tự ‘hòa đao’ thiên ứng thụy
蓮花開八葉結成木子地鐘靈
Liên hoa khai bát diệp, kết thành ‘mộc tử’ địa chung linh.
Và Tạm dịch:
Mầm Lý sinh năm cây, dựng nghiệp từ họ Lê trời cho điềm lành
Hoa Sen mở tám lá, kết thành họ Lý ở đất linh thiêng.
“Hòa đao” 和刀 là chiết tự của họ Lê黎
“Mộc tử” 木子là chiết tự của họ Lý 李
李核 出五蘝肇嗣和刀天 應瑞
Lý hạch xuất ngũ liêm, triệu tự ‘hòa đao’ thiên ứng thụy
蓮花開八葉結成木子地鐘靈
Liên hoa khai bát diệp, kết thành ‘mộc tử’ địa chung linh.
Và Tạm dịch:
Mầm Lý sinh năm cây, dựng nghiệp từ họ Lê trời cho điềm lành
Hoa Sen mở tám lá, kết thành họ Lý ở đất linh thiêng.
“Hòa đao” 和刀 là chiết tự của họ Lê黎
“Mộc tử” 木子là chiết tự của họ Lý 李
chính
là lịch sử nước Đại Việt Đại Hưng tóm lược:
Nước
Đại Việt – Đại Hưng có 2 triều đại tiếp nối
nhau : phía Đông với 5 đời vua họ Lê , kinh đô
là thành Phiên Ngu – Quảng châu và phía Tây của
8 vua họ Lí (2 vua đầu phải giả xưng họ Lê)
trước định đô ở Hoa Lư Ninh Bình sau dời về
thành Thăng long tức Hà nội ngày nay .
Sử
viết …chỉ 1 năm sau ngày tuyên lập nước Đại
Việt năm 918 Lê Nghiễm đổi quốc hiệu thành Đại
Hưng vì cho mình là hậu nhân của ông Lý Bôn – Lưu
Bang , xin nhắc lại …thời hậu khởi nghĩa kháng
Tần có 2 thế lực đối đầu nhau tranh Thiên hạ ,
sử Trung quốc gọi là cuộc Hán – Sở tranh
hùng , đây chỉ là trò lưu manh vặt vãnh của đám
chép sử Tàu ; hán – sở không hàm chứa ý
nghĩa gì cả thực ra chỉ là biến âm của cặp
lưỡng phân : hên – sui , hơn – thua , hưng – suy , bên
thắng ở đây là Lí Bôn – Lưu Bang thì gọi
là hên – hơn – hưng chúa và triều đại do Lí Bôn
– Lưu Bang lập nên là triều Đại Hưng chẳng dính
gì tới hán với hung . Lê Nghiễm đổi tên nước
thành Đại Hưng là theo ý này và căn nguyên sự
việc là : Lưu Tri Khiêm tức Lê Khiêm cha của anh em Lê
Ẩn – Lê Nghiễm là người đất Phong do có công
chống lại loạn quân Hoàng Sào được nhà Đường
bổ làm Phong châu thứ sử , Phong châu là đất gốc
của họ Lê và Phong châu cũng là quê quán của Lí
Bôn – Lưu Bang ….sử chép ….Lưu Bang người đất
Phong dựng nghiệp từ núi Muang Đãng đất Bái
, muang chính là Mường .
Đất
Phong chính là Phong châu kinh đô của Hùng vương cũng
là nơi đặt Phong kinh cuả Văn vương nhà
Châu sau Vũ vương lên ngôi thiên tử mới dời đô
đến đất Cảo hay Kiểu (thực ra là cửu – số
9) .
Thời
nhà Tùy Phong châu là miền Tây sông Hồng tức vùng
Tây Bắc ngày nay Phong châu cũng gọi là Hưng châu ,
nhà Nguyễn gọi là đất Hưng hóa đây chính là
chữ Hưng của nước Đại Hưng ,.
Chính
việc đổi quốc hiệu Đại Việt thành Đại
Hưng của Lê nghiễm đã cung cấp thông tin cực kì
quan trọng của lịch sử Trung hoa và Việt Nam : Lí Bôn
– Lưu Bang quê ở đất Phong , đất về sau là tổng
Hưng hóa của Việt nam .
Phong
châu đời Đường là đất của các châu KIMI tự
trị do các lãnh chúa địa phương cai quản liên
kết với triều Đường thông qua Phong châu đô hộ
phủ , ở những năm 728 -748 Bì la các tức Bố –
cái đại vương Phùng Hưng thống nhất 6 châu Kimi sử
chép là 6 chiếu lập ra nước Nam chiếu (chính
xác là Nam chúa) là phiên quốc của Thiên hạ nhà
Đường hay Việt Thường .
Từ
sau năm 748 vua quan nhà Đường trở nên hủ bại , Vân
Nam thứ sử Trương Đà là tên tham quan vô lại ra sức
ức hiếp người Nam chiếu , vua Nam chiếu là Cái
lỗ phong thực ra là Cái lang (lỗ phong thiết lang)
nghĩa là ‘vua lớn’ tức giận đem quân đánh
Trương Đà chiếm Vân Nam , ban đầu nhà Đường vỗ
về phong Cái lang làm Vân Nam vương nhưng sau đem quân
tấn công nhưng bị quân Nam Chiếu đánh cho tan tác ở
Hạ quan .
Nam
chúa chính thức li khai nhà Đường trở thành 1
nước tự chủ từ đấy .
Nam
chúa của Bố – cái đại vương Phùng Hưng có 1
lịch sử rất oai hùng , những năm 846-866 hầu
như làm chủ cả vùng Đông Nam Á lục địa , phía
Bắc tới tận Tứ xuyên Trung quốc .
Câu
đối ở đền thờ Phùng Hưng :
Phong
thành phủ lị thái Nam bang …đã chỉ ra kinh đô ban
đầu của Nam chiếu là Phong thành , Phong thành dĩ
nhiên nằm trên đất Phong hay Phong châu phía tây Nhị
hà tức sông Hồng và nước tự xưng là nước Nam
hay Nam bang do vậy mà có tên nước Nam chiếu ;
Nam chúa nghĩa quốc gia của vua phương Nam .
Bố
cái đại vương là người lập ra nước Nam chiếu ,
Cái lỗ phong tức Cái lang là người có công mở
rộng và đem lại tiếng tăm lừng lẫy trong lịch sử
cho nước Nam chiếu nhưng vương tổ của Nam chiếu
phải kể là Mai Hắc đế , người khởi dựng nền
móng cho Nam chiếu từ những năm 713 – 722 với kinh
đô ở thành Vạn An thuộc Nghệ An ngày nay, Trong ngôn
ngữ Dịch học Hắc đế cũng chính là Nam chúa
. Thành Vạn An thất thủ quân của Mai Hắc đế rút
chạy về phía Tây sang đất Lào , chính hậu duệ
đời sau của họ trở thành lực lượng nòng cốt
theo Bố Cái đai vương Phùng Hưng dựng nên nước Nam
Chúa lẫy lừng .
Nam
chiếu qua nhiều thời kì với những quốc hiệu :
*Từ
khởi dựng tới 859 là Mường chính xác là Mương
; kí âm Hán văn thành Mông , kí âm La tinh là Muang .
*
859 – 877 cải là Lễ , Lễ chính là nước Lỗ
thời nhà Châu .
*877
– 902 cải là Phong Dân
Cho
tới năm 902 vua Nam chiếu theo tư liệu tất cả mang
họ Mông tức Mương – Mường
*902
– 927 lấy quốc hiệu là Trường Hoà các vua mang
họ Trịnh , rất có thể đây là giai đoạn người
Thái thay người Mường làm vua Nam Chiếu . (Theo nhà
nghiên cứu lịch sử Tạ chí Đại Tường thì các
tướng lãnh gốc người Thái của nghĩa quân Lam sơn
sau khi hội nhập vào xã hội Việt đều mang họ
Trịnh) .
*
828 – 829 cải quốc hiệu là Thiên Hưng hay Hưng Nguyên
tức đất Hưng vua họ Triệu , rất có thể về
mặt sắc tộc vua người Lang xang đã thay người
Thái .
*
929 – 937 cải là Nghĩa Ninh vua họ Dương .
*sau
năm 937 mang tên là nước Đại Lí hoàng gia họ Đoàn
.
Ngoài
từ Mương _ Mường ta thấy trong quốc hiệu Nam
chiếu luôn ẩn hiện ý chỉ phía Tây của Phong châu
với các Dịch tượng chỉ phía Tây như : Lễ –
Lỗ – Lí biến âm của lí lẽ , Phong – tốn –
tản và Ninh – đinh ninh không đổi .
Sử
chép năm 923 hoặc 930 vua Nam Hán là Lưu Nghiễm phái
Lí khắc Trinh đem quân đánh Giao châu và cử Phò mã
Lí Tiến sang cai trị .
Đây
là điều hết sức sai lầm trong 1 loạt lầm lẫn
về thời kì lịch sử này .
Lưu
Tri Khiêm trước làm Phong châu thứ sử nhà Đường
nhưng tư liệu khác viết ông được nhà Đường
công nhận là Tĩnh hải quân tiết độ sứ , Lưu
Khiêm mất con là Lưu Ẩn thay cha lĩnh chức tiết
độ sứ cai quản vùng Giao chỉ , lúc này quân
nổi dậy Hoàng sào chiếm vùng Quảng Đông nhưng sau
1 năm đã bỏ đi để lại khoảng trống …vô chính
phủ , Lưu Ẩn đã kéo quân bình định vùng đất
này và đặt tổng hành dinh ở thành Phiên ngu . Nhà
Lương thay nhà Đường phong Lưu Ẩn làm Thanh hải quân
kiêm Tĩnh hải quân tiết độ sứ , sau phong thêm Nam
bình vương , Lưu Ẩn xây Hưng vương phủ ở đây cho
nên Lưu Ẩn và các vua kế nghiệp cũng được gọi
là Ngô vương , ngô biến âm của ngu tên gọi tắt
thành Phiên ngu – Quảng châu .
Giao
châu là đất gốc khởi dựng của nhà Lê – Phiên
Ngu , nói Lê Ẩn đem quân chiếm Giao châu là chuyện
lẩn thẩn buồn cười …vua ta phái quân chiếm đất
ta …, ngoài ra theo lí lẽ thông thường … Giao chỉ
từ đời Đông Hán dân số đã đông gấp 3 lần
Nam Hải , sự kiên cường của người Giao chỉ đã
được chứng minh qua không biết bao nhiêu thăng trầm
lịch sử , quân Nam Hán có sức voi đâu mà chiếm
Giao chỉ bắt Khúc thừa Mĩ đem về Phiên ngu năm 930
dễ như trở bàn tay thế ?, sự việc càng rõ ,
theo sử Việt …năm 938 chỉ với đám dân binh mới
được biên chế của Ngô Quyền mà đã đủ sức
đánh quân Nam Hán tan tác trên sông Bạch Đằng …hỏi
làm sao 8 năm trước Nam Hán có thể đánh chiếm
Giao chỉ ?.
Cuộc
hành binh của đại Hưng về phía Tây chỉ có thể
là đánh nước Hưng nguyên
chiếm lấy đất phía Nam của Nam Chiếu sát nhập
vào bản đồ Đại Hưng , từ thời điểm này
Nam chiếu sau là Đại Lí chỉ còn đất Vân nam đổ
về phía Bắc , căn nguyên sự việc là Trịnh long
Đản vua nước Trường Hoà là con rể của dòng vua
Đại Hưng đã bị quyền thần Triệu thiện Chiếu
giết và cướp ngôi năm 928 , cũng chính từ sự
kiện này mà bản đồ Đại Việt – Đại Hưng
có lúc kéo tới giáp Miến Điện ngày nay .
Sử
Việt chỉ 1 hàng ngắn gọn …Nam Hán cử Lí Tiến
sang cai trị nước ta không ngày không tháng …
Sách
Mộng Khê bút đàm của Thẩm Quát (1031 – 1095) viết:
“Giao Chỉ là đất cũ Giao Châu của đời Hán đời Đường. Ngũ Đại loạn lạc, Ngô Văn Xương mới chiếm An Nam rồi dần chiếm đất của Giao, Quảng. Sau này Văn Xương bị Đinh Liễn giết, Liễn có đất của Văn Xương. Năm thứ sáu niên hiệu Khai Bảo triều ta (974), Liễn mới quy phục, ban cho chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ; năm thứ tám phong là Giao Chỉ quận vương.
“Giao Chỉ là đất cũ Giao Châu của đời Hán đời Đường. Ngũ Đại loạn lạc, Ngô Văn Xương mới chiếm An Nam rồi dần chiếm đất của Giao, Quảng. Sau này Văn Xương bị Đinh Liễn giết, Liễn có đất của Văn Xương. Năm thứ sáu niên hiệu Khai Bảo triều ta (974), Liễn mới quy phục, ban cho chức Tĩnh Hải quân tiết độ sứ; năm thứ tám phong là Giao Chỉ quận vương.
Tư
liệu khác chép : Năm
975, nhà Tống sai Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù đem
chế sách sang gia phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm
Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ
quận vương …nhưng Tống sử, quyển 488 lại chép
là …phong cho cho Đinh Bộ Lĩnh không phải là Đinh Liễn
?.
Qua
những đọan sử này không khỏi băn khoăn …Phải
chăng Đinh bộ Lĩnh và Đinh Liễn chỉ là 1 nhân vật
lịch sử ?.
Ta
có cảm giác giai đoạn lịch sử này các sử gia
rất lúng túng ,dựa vào tư liệu Tàu mà …vặt
đầu cá vá đầu tôm miễn sao lấp đầy khoảng
trống là được .
Lịch
sử Việt Nam không có nhân vật nào là Ngô văn Xương
, văn xương thiết vương thì ra Ngô văn Xương là Ngô
vương ; thời Ngũ đại trước có An Nam sau chiếm
đất Giao đất Quảng thì chỉ có thể là Ngô vương
Lưu Ẩn không thể là ai khác .
Đoạn
: Sau này Văn Xương bị Đinh Liễn giết, Liễn có đất
của Văn Xương… thực là loạn sử , gỉa dụ rằng
Ngô văn Xương chính là Ngô xương Văn trước là vua
sau thất thế trở thành 1 trong 12 xứ quân thì Đinh
bộ Lĩnh cũng đã dẹp yên rồi làm gì còn đất
nào cho Đinh Liễn chiếm ?. Hơn nữa Đinh Liễn chưa
làm vua ngày nào thì làm gì có đất ?.
Nhà
Đinh đoạn sử sau mang thông tin rất quan trọng :
…Năm
979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên
ngôi, sử gọi là Đinh Phế Đế.
Đinh
Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế nằm trong
tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính.
Triều thần nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu
Dương Vân Nga đã âm mưu ám sát vua Đinh tiên hoàng
và Đinh Liễn năm 978 để đưa Đinh Toàn con của
Dương Vân Nga lên ngôi .
Sau
đó nhân việc năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân
sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng
triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại
Hành.
Nghiên
cứu gần đây đã khám phá Dương vân Nga cũng là
Dương thị Nga là con gái của Dương Tam Kha tức người
đã thay nhà Ngô lên làm vua sử gọi là Dương
bình Vương …? như thế là đã sọ nhà Đinh
sang nhà Ngô lầm lẫn đánh mất cả 1 giai đoan
dài của lịch sử Việt …; thái hậu họ Dương đâu
có dính dáng gì đến tướng quân Lê Hoàn và vụ
án động trời …cướp ngôi vua của con dâng cho
người tình .
Sử
thuyết Hùng Việt cho là thời kì lịch sử này
không có triều Ngô mà đó là triều Đinh của Đinh
Hoàn , trong dòng Sử Trung hoa là triều Bắc Châu
tính từ Vũ đế ; Đinh và Châu đều là phía Tây
trong ngôn ngữ Dịch học , sau triều Đinh này là
triều Dương của Dương bình vương sử Trung hoa
là triều đại Tùy của Dương Kiên . Nối tiếp
triều Dương là nhà Lí của Lí công Uẩn I , sử
Trung hoa gọi là Lí Uyên . Bỏ qua triều nhà Lương
của Chu Ôn ngắn ngủi là thời Thiên hạ vỡ làm 3 :
Đại Việt – Đại Lí và Đại Tống . Dòng sử
Việt Nam là dòng sử của nước Đại Việt – Đại
Hưng , việc lập quốc được chuẩn bị từ
những năm 905 – 907 bởi Lê Ẩn , chính thức kiến
lập năm 917 bởi vua Lê Nghiễm , kinh đô ban đầu đặt
ở Phiên Ngu – Quảng châu . anh em Lê Ẩn cũng được
sử Việt gọi là Lí công Uẩn , để phân biệt Sử
thuyết Hùng Việt gọi là Lí công Uẩn II .
Quân
Tống chiếm thành Phiên Ngu , triều đình Đại Hưng
dời về phía Tây là Giao chỉ , ông Lí làng Diên
Uẩn lên ngôi kế tục sự nghiệp của 5 đời Ngô
vương họ Lê phía Đông cai quản đất nước , Sử
thuyết Hùng Việt gọi là Lí công Uẩn III . Triều
đình Đại Việt phía Tây có 8 vua trong đó 2 vua đầu
phải ‘giả xưng’ họ Lê nhận là lưu hậu của vua
họ Lê thành Phiên Ngu ấm ớ ..xin nhà Tống sách
phong ‘câu giờ’ để có thời gian chuẩn bị binh
lực , đến đời thứ 3 là Lí Nhật tôn mới
chính thức xưng là hoàng đế thứ 3 nhà Lí nước
Đại Việt , định đô ở thành Thăng Long truy phong
tiên đế : Công Uẩn trước mang họ Lê là Lí Thái
tổ , Đức Chính trước họ Lê là Lí Thái Tôn .
Tư
liệu lịch sử Trung quốc ghi nhận sự kiện đúng
như thế nhưng lại đem đặt vào thời đại khác
khiến lịch sử Việt trở nên rối bời .
….Năm
thứ 3 niên hiệu Đại Trung Tường Phù (1010), Chí Trung
con Lê Hoàn chết, có con mới mười tuổi. Lí Công Uẩn
mạo nhận họ mình là họ Lê rồi giết chết Chí Trung.
Tự xưng là Lưu hậu, sai sứ sang xin phong…
Sử
thuyết Hùng Việt cho ông Lí làng Diên Uẩn đã gỉa
xưng họ Lê chính là Đinh bộ lĩnh , theo học gỉa
Trần trọng Kim thì bộ lĩnh là chức quan không phải
là tên người . Theo Sử thuyết Hùng Việt thì Đinh
bộ là phần đất phía Tây tương tự Trung bộ Nam
bộ ngày nay .
Sử
Việt nói đến vị quan đánh chiếm Giao chỉ
là Lí khắc Chính , quan cử sang cai quản Giao chỉ –
đất phía Tây là phò mã Lí Tiến .
Nhận
định quan Đinh bộ lĩnh chính là Lí khắc Chính vì
theo phép phiên thiết : khắc chính thiết Lĩnh .
Lí
Tiến là Đinh Liễn được chứng minh : Theo
phép phiên thiết Hán văn : Lí
Tiến
thiết Liễn
.
Như
vậy : Đinh bộ Lĩnh - Lí khắc Chính - Lí công Uẩn
– Lí Thái tổ chỉ là 1 nhân vật lịch sử , là
người làng Diên Uẩn tỉnh Bắc Ninh ngày
nay .
Đinh
Liễn – Lí Tiến – Lí Đức Chính – Lí Thái tôn
– Lê đại Hành là 1 người .
Lí
Thái tôn là con của Lí thái tổ và mẹ là Lê thị
…khớp đúng với thông tin khác trong sử ...Lí công
Uẩn là phò mã nhà Lê gỉa xưng họ Lê ...
Trước
sự tấn công của quân Tống , vua Lê nước Đại Hưng
chuẩn bị cho trường hợp xấu kinh đô Phiên Ngu phía
Đông không đứng vững khoảng năm 968 đã cử phò
mã Lí khắc Chính đang làm Điện tiền chỉ huy sứ
sang Giao chỉ chuẩn bị sẵn sàng 1 kinh đô Đại Hưng
mới ở phía Tây , sự chuẩn bị này sử Việt sai
lầm viết là … quần thần tôn Lí công Uẩn lên
ngôi vua .
Năm
971 khi quân Tống sắp đánh vào thành Phiên Ngu , vua
Lê Sưởng đã cho chuyển quốc khố sang kinh đô mới
nhưng vào phút cuối nhà vua quyết định không ‘di
tản’ mà quyết định ở lại sống mái 1 phen
với quân nhà Tống , khi biết chắc không thể giữ
được đã cho đốt rụi kinh thành để nhà Tống
chỉ chiếm được đám tro tàn …
Mất
kinh đô phía Đông và vua Lê Xưởng bị quân Tống
bắt , Lí công Uẩn lên ngôi hoàng đế ở Giao
chỉ tiếp tục lãnh đạo đất nước .
Tới
đây thì thông tin lịch sử mang trong bài thơ sấm
truyền “ sét đánh cây gạo” đã sáng tỏ ; 8 đời
vua Lí Tây Đại Việt đô ở Thăng long tiếp nối 5
đời vua Lê Đông Đại Việt đô ở Phiên Ngu là
sự khép kín trọn vẹn của lịch sử nước Đại
Việt – Đại Hưng – Đại việt .
Việc
sử cho nhà Lí là triều đại tiếp theo nhà Lê của
Lê Hoàn – Lê đại Hành là sai lầm .
Nhưng
nếu Lí Tiến chính là Đinh Liễn , Đinh bộ Lĩnh
là Lí khắc Chính thì có thể nói làm sao về
cuộc nổi dậy đánh đuổi Lí Tiến của Dương
diên Nghệ ?.
Sử
thuyết Hùng Việt cho là sử gia Việt đã có
lầm lẫn , Dương diên Nghệ , Dương Đình Nghệ và
Ngô quyền là những nhân vật ở thời kì lịch sử
khác cả gần ngàn năm trước , trong sử Trung hoa là
Tôn Kiên Tôn Sách và Tôn Quyền của nước Đông Ngô
cùng 1 thời với Lí thiên Bảo – Lưu Biểu , Lị Bí
– Lưu Bị của nước Tây Thục …(xin đọc trong Blog).
Bỏ
qua gần 20 năm thời xâm lược nhà Minh , Quốc thống
nước Đại Việt – Đại Hưng từ thời lập quốc
năm 917 truyền lưu liên tục tới tận ngày nay , dù
có mất đất phía Đông , Đại Việt vẫn giữ
được đất phía Tây . Quốc hiệu và kinh đô có
thể đổi nhưng quốc thống không hề đứt đoạn .
Trung
quốc qua 4 triều đại Tống Nguyên Minh Thanh không có
1 dòng sử nào nói đến việc thủy quân của họ
chiếm giữ vùng biển phía Nam nước Đại Việt
– Đại Hưng . Xét về lí …Lãnh thổ Đại Việt –
Đại Hưng là đất Việt và lưỡng Quảng ngày
nay đương nhiên vùng biển ở phía Nam Lưỡng
Quảng – Đông Việt là biển của Đại Việt –
Đại Hưng , thực thể pháp lí chính thức duy nhất
kế thừa là Việt Nam ngày nay , Chính triều đình
Mãn Thanh đã công nhận như thế họ gọi vùng
biển vịnh Bắc bộ là Giao chỉ dương và khúc
biển miền Trung Việt hiện nay là La hải tức biển
của người La , La là tên khác của người Chiêm
thành .
Nay
có kẻ nhận xằng đấy là vùng biển lịch sử
của họ … mãi tận từ thời Hán quốc đầu công
nguyên thì thật là lố bịch nực cười , thực
…không biết mắc cở cái lỗ miệng khi tuyên bố
như thế , dĩ nhiên thông tin đó chỉ là sự
lừa bịp trắng trợn chẳng ai tin .. .; thời buổi
này Thiên hạ đâu có ngu …có chăng chỉ vài kẻ vì
tiền mà đánh mất lương tri hùa theo mà thôi …
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét