Từ sau
thời Tùy – Đường Hoa bắc trở thành vùng hỗn cư của nhiều sắc dân
nhưng ưu thế vẫn thuộc về các tộc người gọi vua là Hãn tức rợ
Hung nô (hung nô thiết Hồ) hậu duệ của rợ Ngũ hồ lúc
trước .
Chu Ôn tức
ông Chu cướp ngôi nhà Đường hay Việt Thường lập nên triều đại của Lang
tức đế – thủ lãnh theo Việt ngữ , Sử Tàu biến tấu thành nhà Lương
và thường chép là nhà Hậu Lương , các tộc rợ Hãn ở Hoa Bắc nhân
lúc Trung hoa suy yếu , lòng người li tán đã nổi loạn chiếm Hoa Bắc
lập nên các nước Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán .
Năm 951
Quách Uy 1 người Trung hoa làm tướng của nước hậu Hán giống Sa Đà bị
vua Hậu Hán nghi ngờ toan thủ tiêu đã ra tay trước giết vua và
diệt nước hậu Hán kiến lập 1 triều đình Trung hoa sử gọi là nhà
hậu Châu .
Quách Uy
chỉ ở ngôi được 3 năm thì mất vào năm 954 , vợ họ Sài người Hán
không có con , vương quyền chuyển cho con nuôi là Sài Vinh cháu
gọi hoàng hậu bằng cô .
Sài Vinh ở
ngôi đến năm 959 bị bệnh chết , con là Sài tông Huấn mới 6 tuổi
nối ngôi , tướng lãnh và binh sĩ không phục nổi loạn trong sự
kiện sử gọi là Trần Kiều Binh biến, tôn Triệu Khuông Dận 1 tướng lãnh
người Trung hoa lên làm Hoàng đế lập ra nhà Tống . Nhà Hậu Chu diệt vong,
Sài Tông Huấn bị giáng xuống làm Trịnh Vương và mất sau đó 13 năm.
(Sử gia
Trần trọng Kim đã có ý nghi ngờ ...Không biết có phải chính từ sự
kiện này sử gia phong kiến Việt khi viết sử mắt …cập kèm đã gắn
lộn chỗ biến thành... vụ án Thái hậu Dương vân Nga và tướng quân Lê
Hoàn cướp ngôi nhà Đinh ?) .
Nhờ lịch
sử ban cho vua họ Triệu tức ‘chậu’ trong tiếng Thái – Lào , Chủ –
chúa trong tiếng Việt mà nhà Tống được xác định là 1 triều đại của
người Trung hoa thực sự dù Tống thái tổ sinh ra ở phía nam
thành Bắc kinh .
Tống thái
tổ mắc sai lầm cực lớn di hoạ cho Trung hoa đến tận ngày nay , Trong
cuộc chiến dành giật Hoa bắc giữa Trung hoa và các Hãn , người Trung
hoa đang có cơ thắng lớn thì Triệu khuông Dẫn dừng lại đột ngột
chuyển hướng xua quân xuống đánh chiếm phương nam , việc này đã khiến
thế lực Hán tộc không bị tiêu diệt để rồi sau này họ vùng lên thời
Mãn – Mông đặt Trung hoa dưới móng ngựa của họ mấy trăm năm , vó ngựa
các Hãn chỉ bị chặn lại ở đất Việt đời Trần khiến đất đai của
đại Hãn quốc không thể mở xa hơn về phía nam , chính nhờ vậy mà
ngày nay còn có vùng Đông nam Á phi Hán .
Miền Hoa
bắc là thời Ngũ đại thì ở Hoa Nam - Bách Việt trải qua thời
Thập quốc ; ở Phong châu thứ sử Lưu tri Khiêm tức Lí hoặc Lê
Khiêm qua đời (lưu tri thiết li – lê) con là Lí hay Lê Ẩn thay thế làm
chủ Phong châu , sử Tàu cho Phong châu ở đâu đó bên phía Bắc Quảng Đông
nhưng quên rằng Lí – Lê Ẩn còn kiêm chức ‘Thủy trại trấn xứ’ của
Thủy trại trấn ở thành Nam ninh ngày nay như thế Phong châu làm
sao có thể ở bắc Quảng Đông được .
Sử Tàu đã
trơ trẽn biến Lí hay Lê Khiêm thành Lưu Khiêm (Lưu là họ của chúa
người Liêu như Lưu Huyền và Lưu Tú .v.v.) , Lí hay Lê Ẩn thành Lưu
Ẩn ,và em là Lí hay Lê Nham thành Lưu Nham ...rồi phịa thêm họ là
dòng dõi của Lưu Bang tổ nhà Tây Hán nên chỉ sau 1 năm ...lỡ sai đặt
tên nước là Đại Việt đã vội vàng cải thành Nam Hán ..., cũng có tư
liệu lịch sử gọi vua khai lập nước Đại Việt đô ở thành Phiên
Ngu – Phiên Ngô Quảng đông là Ngô văn Xương , thực ra đấy chỉ là
phiên thiết của Ngô vương (văn xương thiết vương) , chính điều này
đã gây không biết bao nhiêu lầm lẫn rắc rối giắt dây nối nhau
kéo dài trong dòng sử Việt nam .
Lí hay Lê
Ẩn sử Việt cũng gọi là Lí công Uẩn ...để tránh lẫn lộn hỗn loạn
Sử thuyết họ Hùng gọi là Lí công Uẩn II . Dòng sử Việt có triều
Việt Thường hay Đường của Lí Uyên tức Lí công Uẩn I nối tiếp triều
Tùy hay Việt Tủy của vua họ Dương và chỉ sau thời gian ngắn đứt đoạn
do Chu Ôn tiếm quyền mạch sử tiếp nối qua triều Lí công Uẩn II nước
Đại Việt ở Hoa Nam do anh em Lí hoặc Lê Ẩn và Lí hoặc Lê Nham lập nên
.
Đúng sự
thật thì Lí – Lê Ẩn và Lí – Lê Nham là dòng dõi cùa Hùng Trịnh
vương - Hưng đức lang Lí Bôn nên việc cải quốc hiệu thành Đại Hưng
theo tổ tiên xưa cũng là điều hợp lẽ .
Tư liệu
lịch sử Trung hoa chép :
Năm
928, thủy quân Sở tiến công Nam Hán, bao vây Triệu khánh Người Tàu cố
tình nhiễu loạn lịch sử gọi Triệu khánh là Phong châu của nhà Đường
. Lưu Nham lệnh cho Tả hữu nhai sứ Tô Chương đem 3.000 "nỏ thần" , 100 chiến hạm
cứu Triệu Khánh . Tô Chương giăng dây sắt chìm dưới sông, hai bên bờ căng
dây, đắp đê dài để giấu quân. Đến khi giao chiến với thủy quân Sở, Tô Chương giả
vờ rút lui, lừa quân Sở đuổi theo; sau đó hạm đội Sở lọt vào nơi phục kích,
không thể tiến thoái, bị quân Nam Hán bắn tên, quân Sở bại trận phải tháo
chạy . Phải chăng đây chính là trận Bạch đằng giang của Ngô vương
Quyền chép trong sử Việt ? (...oái ăm là theo sử Việt Ngô Quyền đánh
quân Nam Hán tức Ngô vương đánh chính mình )....
Nơi khởi dựng Nam chiếu của
người Mường ở Bắc Đông dương thuộc nước Lỗ xưa , Nam chiếu ban
đầu quốc hiệu là Mông thực ra đấy là nước Mường bị người Hán
kí âm sai , sau Mường đổi thành nước Lễ , Lễ chẳng qua cũng là Lỗ nước
của Châu công xưa mà thôi , đấy cũng là vùng đất mà Ngô sử gọi là
nước Minh đường (…thiết Mường) hay Đường minh (…thiết Đinh) ,người Tàu
lập lờ coi như nước Nam Chúa chỉ có phần đất phía Bắc của
người Bạch và người Di ở Vân nam mà về sau trên đất ấy họ Đoàn đổi
thành nước Đại Lí chứ chẳng dính dáng gì đến họ Cơ và Mi của
người Đông nam Á . Vấn đề cốt lõi giới viết sử Trung quốc đã
làm là ra sức kéo mọi diễn biến lịch sử vào bên trong lãnh
thổ hiện tại... nhằm vừa ổn định dân tình bên trong vừa lừa mọi
người bên ngoài như thể ...là 1 quốc gia tốt lành từ xưa đến nay chưa
từng chiếm của ai tấc đất nào...
Cuộc Nam
tiến của nhà Tống đã tạo sức ép ngày 1 nặng lên triều đình
Đại Việt – Đại Hưng , từ năm 968 người Đại Hưng đã chuẩn bị cho tình
huống xấu nhất , sẵn sàng cho guồng máy lãnh đạo đất nước ở phía
Tây tức Đinh bộ ., quả thực năm 970 thì Phan Mỹ tướng nước Tống
kéo quân tổng công kích vào kinh đô Phiên Ngu , vua Lí – Lê Sưởng sau khi
chuyển ‘quốc khố’ về đất phía Tây (sử Tàu bêu xấu là …chất vàng
bạc châu báu xuống thuyền định chuồn nhưng bị quân sĩ ‘cuỗm’ mất
...đành ở lại đánh nhau với quân Tống) đã ở lại cùng quân sĩ tử
thủ giữ thành , sau cùng biết không thể giữ được nữa đã cho thiêu
rụi toàn bộ kinh thành Phiên Ngu quyết không để lại gì cho quân Tống
vơ vét chiếm đoạt .
Tống thái
tổ tỏ ra là tay chính trị lão luyện đã không ‘xử’ Lê Sưởng mà điệu
về kinh đô nước Tống phong cho chức tước ngang hàng Nhị phẩm và không
quên ban cho nhiều của cải để sống những ngày còn lại trong
cảnh vương gỉa không còn nhớ gì đến nước với non , thù với oán ....
Thông tin
lịch sử sau cần phải xét lại :Năm 930, Lưu Nghiễm khiển bộ tướng Lương
Khắc Trinh và Lý Thủ Phu tiến công Giao
châu- thủ phủ của Tĩnh Hải quân; sau đó tiến công Chiêm Thành, cướp vật quý của nước
này rồi rút lui.... Thông tin này hoàn toàn sai vì Lê Ẩn anh Lê Nhâm trước nối nghiệp cha làm thứ sử Phong
châu sau mới từ Phong châu chiếm Lưỡng Quảng chuẩn bị mọi điều kiện
để em là Lê Nham kiến lập nước Đại Việt đô ở thành Phiên Ngu – Ngô . ;
như thế Phong châu – Giao chỉ là đất gốc của nước Đại Việt thì còn chiếm với đoạt gì
nữa , có chăng là từ Phong châu Lê Ân tiến chiếm miền Tây Giao chỉ tức
lãnh thổ phía Nam của Nam Chiếu sau khi cháu ‘ rề’ ông là Trịnh nhân Mân
vua đại Trường Hoà quốc bị bộ tướng giết chết cướp ngôi năm 928 ?.
Người phía
Nam của Nam Chiếu do vị trí địa lí đã tiếp thu nhiều đặc điểm của
văn hóa Ấn độ đặc biệt là đạo Hindu và đã mang theo khi nhập vào
Giao chỉ thành ‘Đinh bộ’ của Đại Việt – Đại Hưng . Đinh bộ Lĩnh thủ
lãnh đầu tiên của triều đình Đại Việt – Đại Hưng phía Tây sử gọi là
Công Uẩn tức Ông Uẩn , Sử thuyết Hùng Việt gọi là Lí công Uẩn III
tức ông Lí người làng Diên Uẩn , thực ra theo 1 số tư liệu thì 2
chúa đầu của Đinh bộ tức Tây phần Đại Việt – Đại Hưng đô ở động Hoa
Lư là Công Uẩn và Đức Chính mang họ Lê chỉ đến đời thứ 3 là Nhật
Tôn xưng đế dời đô về thành Thăng long mới đổi thành họ Lí .
chính do nét văn hóa người ‘cựu Nam chiếu’ mà thành Thăng long tức
kinh đô Đinh bộ của nhà Lê – Lí mang nhiều nét biểu hiện của văn hoá
Ấn độ , điều này giới nghiên cứu hiện nay lầm lẫn coi là sự
hiện diện của văn hóa Chăm pa trên kinh đô Đại Việt , sự lầm lẫn
này khiến cho dòng sử Việt đã rối càng thêm ...không biết sao nữa
...?.
Theo Sử
thuyết Hùng Việt thì đất phía Tây Giao chỉ là nước Lỗ vua Châu ban
cho Châu công, phía Nam Giao chỉ là nước Yên của ông Thiệu công Thích ,
do gặp phải bức trường thành Giao chỉ mà ở đấy cuộc chiến chống
Hán chưa bao giờ chấm dứt nên ảnh hưởng của Hán tộc không thể lan
tới vùng đất phía Tây và phía Nam Giao chỉ .
Ngay từ
thời Lí Bí – Khổng Minh ; dân của Mãnh Hoạch phía tây Giao chỉ đã
được hưởng quyền tự trị rộng rãi , thời nhà Đường chỉ coi
là vùng liên kết được bảo hộ , nhà Đường coi Giao chỉ là
trọng địa phía Nam và đặt ở đấy 2 đô hộ phủ : Phong châu đô hộ
phủ lo việc bảo hộ các châu Cơ – Mi trên đất Lỗ xưa , An Nam đô hộ phủ
lo việc bảo hộ phía Nam (nay) Giao chỉ tức nước Yên và đất Phan của
người họ Phan con cháu Tất công xưa . (Phù nam thiết phan , đất
Yên – An và Phù nam viết tắt thành An – Nam). Cơ và Mi là 2 họ gốc tổ của
người Trung hoa ; Cơ là họ của Hàng đế hay đế màu Vàng người đã lập
ra Hữu Hùng quốc tức nước của người họ Hùng còn Mi hay Mị
được biết đến là họ của chi Hùng vua nước Sở và người nước Việt
của Việt vương Câu tiễn .
Nước Nam
Chiếu đúng ra phải coi là khởi đầu từ khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Hắc
đế lãnh đạo với sự hiệp trợ của liên quân Đông nam Á nổ ra vào năm Khai
Nguyên thứ nhất đời vua Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, tức năm Quý Sửu (713),
Hắc là sắc của phương Nam ; Hắc đế nghĩa là Nam chúa
chép sai thành Nam Chiếu không phải nghĩa là ông vua Đen như có
sách nói .
Tới những
năm 728 – 748 Bì la Các hay Pi lo co được sự tán trợ của nhà Đường đã
hợp nhất lục Chiếu tức đất đai của 6 châu Cơ – Mi thuộc quyền 6 lãnh
chúa phía Tây Nhị hà lập ra Nam chiếu – chúa , trong sử Việt
Bì la cáp là Phùng hưng ‘bố cái’ đại vương , pi lo thiết bố , cáp hay
co là biến âm của cái , đây được xem là sự tái sinh của
Nam chiếu sau khi Mai Hắc đế bị quân nhà Đường đánh bại từ kinh
thành ở Nghệ an rút về đất phía Tây giao chỉ tức đất Lào ngày
nay .
Biến cố
này Sử Tàu sửa đổi thành ...người Bạch và Di quanh hồ ‘Nhĩ hải’
lập ra nước Nam chiếu , đó là sự dối trá trắng trợn vì Bì la Cáp -
Bố cái sau khi thống nhất lục chiếu được nhà Đường phong là Quy
Nghĩa vương , tới thời chúa Nam Chiếu thứ 2 Cái Lỗ Phong 748 –
779 mới làm chủ Vân nam và được nhà Đường phong là Vân nam vương
.
Người ta đã cố ý làm sai lạc lịch sử bằng cách phịa ra ...cách đặt tên các vua Nam Chiếu là theo phép đặt tên của người Di và Bạch (ngữ hệ Tạng Miến) ; lấy tên cha làm họ cho con ...cha là Bố Cái thì con là Cái lỗ Phong , thực ra Nam Chiếu chẳng có ông vua nào tên là Lỗ Phong ..., đó chỉ là trò chơi chữ ... lỗ phong thiết long – lang , vua thứ 2 Nam Chiếu là Cái lang nghĩa là chúa cả hay vua cả vì chính Cái lỗ phong - Cái lang mới là vì vua tuyên lập nước Mường – Mông độc lập và tôn vinh cha là Pi lô Cô - Bố Cái đại vương .
Triều chính nhà Đường lúc này đã trở nên cực kì hủ bại , vua thì say mê Dương qúy phi chẳng thiết gì đến việc nước , quyền hành thực sự nằm trong tay tể tướng bất tài Dương quốc Trung anh của Dương qúi phi , quan chức địa phương chỉ biết vơ vét và trác táng , có kẻ làm những việc đồi bại cực kì ...khiến Cái lỗ Phong phản Đường tuyên bố li khai thành 1 nước độc lập , Đường Triều kéo quân binh đến đàn áp nhưng chỉ huy là 1 lũ bất tài bị Nam Chiếu đánh cho tơi tả . Đây là sự việc xảy ra ở đời sau của Bố cái đại vương - Phùng Hưng , sử Việt đã lầm lẫn chép thành : Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của người dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ nhà Đường ...
Người ta đã cố ý làm sai lạc lịch sử bằng cách phịa ra ...cách đặt tên các vua Nam Chiếu là theo phép đặt tên của người Di và Bạch (ngữ hệ Tạng Miến) ; lấy tên cha làm họ cho con ...cha là Bố Cái thì con là Cái lỗ Phong , thực ra Nam Chiếu chẳng có ông vua nào tên là Lỗ Phong ..., đó chỉ là trò chơi chữ ... lỗ phong thiết long – lang , vua thứ 2 Nam Chiếu là Cái lang nghĩa là chúa cả hay vua cả vì chính Cái lỗ phong - Cái lang mới là vì vua tuyên lập nước Mường – Mông độc lập và tôn vinh cha là Pi lô Cô - Bố Cái đại vương .
Triều chính nhà Đường lúc này đã trở nên cực kì hủ bại , vua thì say mê Dương qúy phi chẳng thiết gì đến việc nước , quyền hành thực sự nằm trong tay tể tướng bất tài Dương quốc Trung anh của Dương qúi phi , quan chức địa phương chỉ biết vơ vét và trác táng , có kẻ làm những việc đồi bại cực kì ...khiến Cái lỗ Phong phản Đường tuyên bố li khai thành 1 nước độc lập , Đường Triều kéo quân binh đến đàn áp nhưng chỉ huy là 1 lũ bất tài bị Nam Chiếu đánh cho tơi tả . Đây là sự việc xảy ra ở đời sau của Bố cái đại vương - Phùng Hưng , sử Việt đã lầm lẫn chép thành : Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của người dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ nhà Đường ...
Không như
sử Việt đã viết :
Phùng Hưng
chết năm 971 thì đất nước chia làm 2 , có số quan tướng muốn lập em
Phùng Hưng là Phùng Hải kế ngôi nhưng 1 số khác đứng đầu là mãnh
tướng Bồ phá Cần bắt phải lập con Phùng Hưng là Phùng An khiến
Phùng Hải phải chạy về đất Chu nham ...
Đoạn sử
này thực ra phản ánh sự việc : Quân dân của Phùng Hưng thuộc về
2 tộc người , 1 theo văn hóa phụ hệ và 1 phần còn theo mẫu hệ ,
theo phép phụ đạo có từ đời Châu công Đán thì cha truyền ngôi cho con
còn theo mẫu hệ thì anh truyền ngôi cho em ..., Phùng Hải chạy về Chu
nham là nói Chạy về vùng đất của người Chăm (Chu nham thiết cham) , An
– Ơn chỉ nghĩa là đời vua thứ nhì (ơn đồng nghĩa với nhị là số đếm
cũ sau ít dùng) , Hải là biến âm của hai – 2…rất có thể sự việc đã
được nói đến trong chuyện Nam Chiếu sách Lĩnh nam trích quái …bèn
chia đất làm 2 , trên từ Qúi châu xuống đến Diễn châu gọi là lộ
Lâm An chia cho Triệu ông Lí và Nam chiếu thống lãnh . Từ Cầm châu
xuống đến Hoan châu gọi là lộ Già la (hay Như Hoàn) chia cho ...; đấy
phải chăng là đất Chăm chia cho Phùng Hải ?
…(người Chăm cũng là người Hời ; hà – hải – hời chỉ là biến âm) .
…(người Chăm cũng là người Hời ; hà – hải – hời chỉ là biến âm) .
Làm gì có
chuyện Phùng An ở ngôi được 2 năm thì bị nhà Đường diệt , Phùng An -
Cái lỗ Phong không những phản Đường tuyên bố nước ‘Mường – Mông’ độc
lập mà còn đánh cho lũ quan binh hủ bại thua tơi tả chiếm luôn Vân nam
làm tổng hành dinh ...
Sử Việt
đã sai khiến đánh mất tương quan kế thừa về mặt lịch sử và văn minh
giữa nước Việt nam ngày nay với Nam chiếu 1 thời oai hùng trong qúa
khứ nhưng tệ
hơn cả là thay đổi liên quan ‘người nhà’ của Nam chiếu – Đại Việt và
Chăm (Phùng Hải là em Phùng Hưng , Phùng An là con Phùng Hưng ) thành
ra ‘người ngoài’để ngày nay không ít kẻ dốt nát hằn học cho là
người Việt đã diệt quốc chiếm đất của người Cham .
Ngoài câu
đối ở đền thờ Phùng Hưng :
“Thanh chấn
Lý Đường, Thuận Đức niên gian uy Bắc Khấu
Vận thừa Mai Đế, Phong thành phủ lỵ thái Nam Bang”
Vận thừa Mai Đế, Phong thành phủ lỵ thái Nam Bang”
Thần tích
đình Đông các còn gọi Bố cái đại vương là Tây Hưng đại vương
Điều này
cho thấy rất có thể Phùng chỉ là tam sao thất bản của chữ Phong quẻ
Tốn chỉ phía Tây ngược với quẻ Chấn ở phía Đông .
Vận thừa
Mai đế tức Hắc đế – Nam đế đã bàn ở trên , Phong thành phủ lị
chỉ ra Bố cái – Pi lo co đã chiếm đất thuộc Phong châu đô hộ phủ mà
lập nên Nam bang tức nước Nam , vua Nam bang không gọi là Nam chúa
– chiếu thì là gì ? .
Phải chăng
quân Mông cổ dù bị xem là thất bại trong cuộc xâm lăng Đại Việt
đời Trần nhưng chính sự thất bại ở Đông nam Á nói chung của quân Mông
cổ đã phá nát đất Đinh bộ , cộng thêm vào đấy là hậu qủa
của biến đổi chính trị bên trong Đại Việt đã khiến Đinh bộ –
phần đất phía Tây không thể tái lập trọn vẹn . Năm 1253 đội quân do
Kublai Khan chỉ huy tiến về hạ lưu sông Cửu Long để tấn công vương quốc Khmer sau
đó phải rút chạy để lại 1 vùng trống mà lúc này ở Giao
chỉ nhà Trần đã thay nhà Lí – Lê , vua nhà Trần gốc Phúc kiến
đông nam Trung hoa hoàn toàn xa lạ với miền Tây , mối ràng
buộc về sắc tộc và truyền thống văn hóa giữa Đại Việt và người
phía nam Nam chiếu hầu như không còn , chỉ riêng chữ viết thôi đã khác
nhau hoàn toàn chưa kể đến vấn đề tôn giáo tâm linh do vậy người Nam
chiếu cũ cảm thấy việc tái hội nhập vào Đinh bộ không còn là
1 nhu cầu thúc đẩy từ bên trong nữa , từ đấy về sau trên đất Đại
Việt biểu hiện văn hóa Ấn độ phía tây của người Nam chiếu mờ
nhạt dần .
Thời gian
này trên miền đất phía Nam của Nam chiếu tức Tây Đại Việt đã ra
đời nhiều vương quốc mới :
*Vương quốc
Sukhothai thủ đô là Ayutthaya được người Xiêm được thành lập năm 1351.
* Vương quốc
Lān Nā đô ở Chiềng Mai cũng được thành lập vào khoảng thời gian này
*Vương
quốc Lansan cũng ra đời năm 1353 . Chúa của người Lào
là Fā Ngum đã chinh phục hầu như toàn bộ cao nguyên Khōrāt và phần
lớn lãnh thổ trước đây là phủ Hưng hoá của Đinh bộ
(nay là vùng tây bắc Việt Nam) ; nơi mà trước đó nước Nam chiếu của
Bố cái – Pi lo Co đã tái sinh . (Có tư liệu nói các Lang
Mường vẫn nhận mình thuộc dòng dõi của Đinh bộ Lĩnh) .
Sau thời
điểm này về cơ bản bộ mặt Đông nam Á lục địa đã hình
thành và tương đối ổn định không còn những biến động lớn
làm thay đổi diện mạo khu vực cho đến tận ngày nay .
Sử thuyết
Hùng Việt nhìn nhận nước Việt Nam hiện tại không chỉ thừa kế những
gía trị Văn hóa - lịch sử khởi từ Việt Thường – Đường , tiếp nối
bởi nước Đại Việt - Đại Hưng kinh đô ban đầu ở thành Phiên Ngu – Quảng
châu mà còn thông qua ‘Đinh bộ’ cùng với Lào và Thái lan có thể là
cả Miến Điện kế thừa quốc thống và nền văn hóa văn minh Nam
Chúa – Nam Chiếu 1 thời lẫy lừng trong lịch sử nhân loại .
Người viết lược lại 1 giai đoạn và làm rõ ra 1 số khúc mắc trong lịch sử nước Việt không ngoài mục đích chia sẻ cùng bạn đọc cái nhìn về tính lưỡng hợp văn hóa Hoa và Ấn vốn có trên đất nước này từ trong qúa khứ ngàn năm mong xóa đi cái nhìn thiếu thiện cảm thậm chí nảy sinh đối kháng xuất phát từ những khác biệt về văn hóa giữa người Việt với nhau và xa hơn nữa là chuẩn bị cho sự hội nhập lớn lao hơn trong không gian sinh tồn chung là cộng đồng Đông nam Á vào 1 thời điểm có thể là rất gần ./.
Người viết lược lại 1 giai đoạn và làm rõ ra 1 số khúc mắc trong lịch sử nước Việt không ngoài mục đích chia sẻ cùng bạn đọc cái nhìn về tính lưỡng hợp văn hóa Hoa và Ấn vốn có trên đất nước này từ trong qúa khứ ngàn năm mong xóa đi cái nhìn thiếu thiện cảm thậm chí nảy sinh đối kháng xuất phát từ những khác biệt về văn hóa giữa người Việt với nhau và xa hơn nữa là chuẩn bị cho sự hội nhập lớn lao hơn trong không gian sinh tồn chung là cộng đồng Đông nam Á vào 1 thời điểm có thể là rất gần ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét