6 / Triệu Đà dùng kế gửi con ở rể mà chiếm nước Âu Lạc của An Dương vương .
Trích Sử ký Tư mã Thiên Phần Úy Đà liệt
truyện .
...Được hơn một năm, Cao Hậu mất, liền bãi binh.
Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới,
đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc
theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có
hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là
“chế”, chẳng kém gì Trung Quốc....
Lữ hậu mất năm 179 TCN như thế Triệu Đà chỉ
có thể bắt ‘Tây Âu Lạc’ lệ thuộc vào mình từ năm 178 TCN không thể như
truyền thuyết lịch sử Việt viết ...Đà đánh và chiếm nước của An dương
vương năm 207 TCN.
Liệu chuyện Trọng thủy Mỵ châu và việc mở
mang nước Nam Việt của Triệu Đà sang phía tây có thể diễn ra ở năm
178 TCN ?.
Sử ký , Phần Tần thủy hoàng bản Kỷ chép :
Ngay năm 221 TCN
khi Thủy hoàng lên ngôi thì ...
...Đất
đai chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên,phía tây đến Lâm Thao,Khương
Trung,phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc,phía bắc lấy
Hoàng Hà làm biên giới và men theo Âm Sơn đến tận Liêu Đông ; Nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc Ý nói đến
miền phía Nam mặt trời phải mở cửa về
phía bắc mới có ánh nắng, Nhiều nhà nghiên cứu cho Bắc hộ là miền Quảng
Nam – Việt nam ngày nay .
Xét kĩ ra ... chí ít từ năm 221 TCN đất Giao chỉ đã nằm trong lãnh thổ thiên
hạ nhà Tần thì làm gì còn đất nước của An dương vương cho Triệu Đà
đánh chiếm năm 178 TCN hay 207 TCN ?.
Việc nhà Triệu đánh chiếm nước của An dương
vương và chuyện tình lâm li bi đát Trọng Thủy – Mỵ Châu chỉ có thể
diễn ra trước năm 221 TCN ...nhưng theo Sử ký thì lúc
này đã làm gì có Nam Việt vũ đế Triệu Đà ?. Liệu có thể đấy là
họ Triệu khác không phải là Triệu Đà Nam Việt vũ như truyền thuyết Việt
đã lầm lẫn ?.
Xét sử Việt và Trung hoa ...dọc ngang khuấy
đảo thiên hạ đánh tới tận đất
phương nam thời điểm này thì chỉ có thể là họ Triệu của vua
nước Tần .
Tư liệu cổ sử Trung hoa có tới 2 chữ Triệu .
Triệu biến âm của chậu – chủ hay chúa chỉ
người đứng đầu cộng đồng .
Triệu biến âm của chữ Chiêu chỉ hướng Tây mặt
trời lặn ngược với mục – mọc chỉ hướng Đông mặt trời mọc .
2 chữ triệu này thường bị dùng lẫn khiến thông tin cổ sử Trung hoa đôi lúc
trở nên rối tinh rối mù ...không sao hiểu nổi như trường hợp Triệu Đà
và Trọng Thủy - Mỵ châu.
Ngoài chữ
Triệu đã nói còn nhiều thông tin khác khiến phải suy nghĩ :
Sử Trung quốc viết Tử sở là con thứ 2 của
Doanh Trụ và Hạ cơ được ông nội là Chiêu tương vương cho sang nước
Triệu làm con tin ...thực sự Triệu so với Tần thì chỉ là tiểu quốc phương Bắc nên chẳng có
lý do gì để phải đem cháu nội Tần vương sang làm con tin , phải chăng ở
đây người ta đã cố ý lầm lẫn nước Triệu với vua Chiêu – Châu ,thực chỉ có Thiên tử Châu mới đủ tầm cỡ để Tần vương cho
cháu sang làm con tin .
Tử Sở là con thứ 2 của Doanh Trụ và Hạ Cơ nên
còn gọi là trọng Sở , Sở – sủy – thủy là 1 , trọng Sở cũng là
Trọng Thủy , Mỵ Châu là công chúa nhà Châu (mỵ là con gái vua , lang
là con trai vua) sử gọi là Triệu Cơ
, cơ là người đàn bà đẹp chỉ chung các phu nhân quyền qúy ,
Triệu cũng là Chiêu – Châu , dựa vào ý nghĩa của tên gọi thì Mỵ Châu
và Triệu cơ cũng chỉ là một . Dân gian Việt có từ Sở khanh chỉ đàn
ông chuyên đi gạt tình cũng là 1 bằng chứng ngôn ngữ xác thực việc
Trọng Thủy – Tử Sở gạt Mỵ Châu – Triệu Cơ tráo nỏ thần khiến nhà
Châu tiêu vong .
Năm 257-258 TCN là năm Tần vây kinh đô Hàm đan
của Triệu đồng thời cũng là năm Tần diệt nhà Châu - Chiêu và đặc
biệt năm 257 TCN ở Giao chỉ diễn ra
biến cố lớn theo sử Việt là Thục
vương đánh bại Hùng vương , nước Âu
Lạc ra đời thay thế nước Văn Lang .
Phải chăng đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay
thực ra cả 3 sự kiện chỉ là 1 nhưng được ghi nhận bởi 3 nhà chép sử
khác nhau ?.
Trong giai đoạn này lịch sử
đầy dẫy những thông tin ngụy tạo bẩn thỉu tất cả chỉ nhằm
làm người ta lạc hướng dễ bề che dấu sự thực là kinh đô Đông Châu
nằm trên đất Giao chỉ rất có thể nằm ngay trong lòng Hà nội ngày nay , sau
Tần đặt là quận Tam xuyên .
Năm 331 TCN Tần vương cho xây ‘đô thành’ tức kinh
thành của nước Tần thì biến ra ...xây thành phố tên là Thành đô , Tứ
Xuyên thoại còn gọi là ‘Tần ngữ’ ...rõ ràng như thế nhưng theo Lịch
sử Trung quốc chính thống thì đất Tần lại ở Thiểm Tây ,Tứ xuyên là
nước Thục bị Tần chiếm năm 316 TCN nhưng
lại xây Thành đô từ năm 331 TCN thực
vô lý ...? , sự thật đất Tần là Tứ xuyên , nước Thục bị tần chiếm
năm 316 TCN là nước Thục ở Qúy châu và bắc Vân Nam đất gốc của nhà
Châu , Tứ xuyên xưa là Xuyên thục không
phải Thục , sự kiện này được ghi nhận trong truyền thuyết Việt :
“Năm Tân mão
(210 tr. c. ng.) (Thục – An Dương vương năm thứ 48; Tần – Thuỷ hoàng năm thứ
37) […] Triệu Đà sang xâm lược, đóng quân ở núi Tiên Du thuộc Bắc Giang, đánh
nhau với vua Thục. Vua Thục đem nỏ thần ra bắn. Đà thua chạy.
“Triệu Đà biết
vua Thục có cái nỏ thần, không thể địch nổi, bèn lui giữ núi Vũ Ninh, sai sứ
xin hoà. Vua Thục mừng, chia đất cho Đà từ sông Bình Giang trở về Bắc; còn từ
Bình Giang trở về Nam thì vua Thục cai trị. Triệu Đà cho con là Trọng Thuỷ sang
làm con tin, nhân tiện cầu hôn” (Cương mục), Tính ra truyền thuyết đã sai
lệch lùi về sau 106 năm .
Triệu là biến âm của chậu – chủ , đà là đầu
, triệu đà chính xác là chủ – chúa đầu không phải họ và tên của ai
cả , chủ đầu ở đây chỉ Tần Hiếu vương ông nội Thủy hoàng không phải
là Triệu Đà Nam Việt vũ đế .
Triệu cơ hay Châu cơ công chúa lá ngọc cành
vàng nhà Châu bị bọn bồi bút đê tiện biến ra hạng đàn bà lăng loàn dâm dật vô độ ,
thân làm thiếp của Lã bất Vi đã có thai rồi bị gán gả cho Tử Sở
trong 1 âm mưu ghê gớm không tưởng ...,sự thực tư liệu Lịch sử Trung hoa chép rõ Triệu
cơ về với Tử sở 12 tháng mới sinh hạ Doanh Chính sau là Tần thủy
hoàng đủ chứng tỏ chuyện Lã bất Vi ‘buôn vua’ là chuyện hoàn toàn
bịa đặt chỉ là sản phẩm của những cái đầu bệnh hoạn .
Ấy vậy mà chuyện tư thông giữa Triệu thái
hậu mẹ Tần thủy hoàng lại được dùng làm chất liệu nặn ra chuyện thái
hậu Cù thị nước Nam Việt :
…Triệu Văn vương vua Nam Việt cho con trai là
Anh Tề sang sống ở kinh đô Trường An của nhà Hán để làm con tin. Trong thời
gian đó, (hẳn do mưu kế của nhà Hán sắp đặt ?), Anh Tề lấy Cù thị, một người nữ
Hán tộc. Cù thị trước khi lấy Anh Tề, đã có quan hệ nam nữ với An Quốc Thiếu
Quý. Đến khi về nước, Anh Tề lên ngôi vua (Triệu Minh vương), Cù thị được phong
làm hoàng hậu….
Con của Cù thị là Hưng , Triệu Minh vương mất
Hưng lên làm vua Nam Việt hiệu là Triệu Ai vương tôn mẹ
làm thái hậu.
Nước Nam Việt của Triệu Đà do đánh đổ An
dương vương sáp nhập với Âu Lạc mà
thành như ghi chép trong sách sử hiện nay thực ra là sự phóng tác từ
những mảnh vụn lịch sử thời Tần lắp ghép lại mà thành , Lịch sử thực nước Nam Việt ra sao hiện là 1 bí
ẩn lớn lao của lịch sử .
Kết quả khai quật mộ vua Triệu văn vương cho thấy
các ấn chương, văn bản và danh xưng đều là "đế" chứ không phải vương
, Ấn vàng ‘Văn đế hành tỷ’ là chứng cớ rành rành xác định Nam Việt
là 1 nước độc lập chẳng phải là chư hầu của ai , đặc biệt Văn vương
là Triệu Mạt không phải Triệu Hồ như sách Tàu chép xưa nay , nhà
Nghiên cứu Nguyễn cung Thông đưa ra kiến giải rất hữu lý ...Mạt là từ
Việt thực ra là Một , Triệu Đà là chúa đầu tức ‘chủ một’ , chúa
đầu tiên nước Nam Việt .
...Những
nghiên cứu về đồ tuỳ táng chôn trong các khu mộ táng Nam Việt cũng như xương cốt
và ADN cổ phản ánh rõ ràng ưu thế Việt tộc trong quốc gia Nam Việt của Triệu Đà.
Trong mộ vua Nam Việt cũng như mộ các quan thứ sử, huyện lệnh Nam Việt đều chôn
theo những bảo vật của người Việt thuộc nhóm văn hoá Đông Sơn, như trống đồng,
thạp đồng, rìu chiến và nỏ ...(TS Nguyễn Việt – trích internet) .
Ngô thì Sĩ viết: “Theo sách ngoại sử: Mẹ Trọng Thủy
là Trình Thị, người làng Đường Xâm, quận Giao Chỉ , (nay làng Đường Xâm, huyện Chân Định), nơi có miếu thờ Triệu Đà,
Trình Thị được tòng tự ở miếu ấy”.
Đền thờ Triệu Đà ở Đồng xâm Thái bình ngày
nay với nhiều hoành phi câu đối khẳng định và ca tụng công đức ...
Khai
quốc đại đế: Bậc đế vương vĩ đại khai quốc
Ngoài ra còn những Bức đại tự khác với ý ca
ngợi hết mức :
Thác
địa dư vạn lý: Mở đất hơn vạn dặm
Phối
Thiên Phối Địa: Sánh với Trời, Sánh với Đất
Nãi
Thánh Nãi Thần: Bậc Thánh bậc Thần
Đặc biệt ngoại lệ ; với lịch sử Việt nam
thì có lẽ dòng sử dân gian ít sai lầm hơn dòng sử bác học do không
hoặc ít bị ảnh hưởng của 4 cái
kho hàng gian hàng giả ‘Tứ khố toàn thư’ của nhà Thanh bên Tàu .
Nhà Trần nhìn nhận công lao to lớn của vua Nam
Việt phong Triệu Đà là : Khai Thiên Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hoàng đế.
Nói chung từ nhà Trần , đức Trần hưng Đạo
tới Nguyễn Trãi trong bình Ngô đại cáo và sử gia Lê văn Hưu trong đại
Việt sử ký toàn thư đều công nhận Triệu Đà là vì vua lớn của nước ‘ta’ , chỉ
đến đời Nhà Lê , Ngô Thời Sỹ với “Việt Sử Tiêu Án” mới lật ngược vấn
đề ...dựa vào sử sách Tàu thì ...Triệu Đà là người Hán, vốn là tướng nhà Tần,
quê ở Chân Định (tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc ngày nay) ...mà phán như đinh
đóng cột : nước ta mất nước lệ
thuộc Tàu từ thời Triệu Đà ..., quả thực nếu như thế phải gọi là ‘giặc’ Đà mới đúng ...
Hiện nay nhiều người đang theo gót Ngô thì Sỹ
đặt lại vấn đề bản sắc nước Nam
Việt và Triệu Đà nhưng nói chung không có gì mới khác hơn sự biện
luận của họ Ngô .
Triệu Đà là người Hán chỉ là sự khẳng định
vô bằng nên không gía trị , quê ở Chân định thì không phải bàn nhưng
viết khơi khơi Chân định nay là Hà Bắc Trung quốc thì phải xem lại , 2
chữ ‘nay là’ trong sách Tàu thì 10 lần sai đến 9 ... họ chỉ phán khơi
khơi chẳng căn chẳng cứ gì cả , việc ở đấy có mộ cha mẹ Triệu Đà và
có Đà thành ...không phải là 1 bằng chứng sử học , muốn đắp bao
nhiêu mộ dựng bao nhiêu bia mà chẳng được , suy diễn tên gọi Đà thành
tức thành kỷ niệm Triệu Đà chỉ là đoán
mò , nói ...thành phố Đà lạt của Việt nam là rút gọn của
‘Triệu Đà ăn lạt’ kỷ niệm việc
Triệu đà từng nằm dưỡng bệnh ở đấy phải kiêng khem ăn lạt do chứng cao huyết
áp ...liệu có chấp nhận được không ?.
Lĩnh nam trích quái cho biết ‘Chân định’ là 1
trong 15 bộ của nước Văn lang thời vua Hùng , liệu đấy có phải là quê
hương Triệu Đà ? .
Nếu đúng Chân định là 1 bộ của nước Văn lang
thì rõ ràng Triệu Đà là con cháu vua Hùng như 2 tư liệu sưu tầm trong
dân gian :
-
Trích Phả ký họ Nguyễn
(http://www.vietnamgiapha.com/XemPhaKy/78/pha_ky.html)
....TRIỆU ĐÀ (258-137 Tr.CN) có tên thực là Nguyễn Cẩn.
Ông có dòng dõi là vua Hùng của Lạc Việt – con của Hùng Dực Công, Cháu của Hùng
My Vương (Hùng vương thứ 18) ...
-
Tác giả Bùi văn Nguyên trong nghiên
cứu của mình cho biết Triệu Đà tên thật là Nguyễn Thân , dân gian gọi
là Lý ông Trọng phò mã nhà Tần ...
Không phải là ‘lửa’ đúng hoàn toàn thì ít ra
thông tin Triệu Đà – Chúa đầu mang họ Nguyễn cũng là ‘khói’, làn
khói mờ nhạt còn lại sau 2000 năm cũng là điều qúy gía như đốm sáng
trên bầu trời lịch sử Việt – Hoa đầy mây mù do giới sử học người
Hán giăng ra .
Nhà Trần đã ra lệnh tất cả người họ Lý
phải đổi thành họ Nguyễn như vậy rất có thể nguyên thủy Triệu Đà
là người thuộc dòng họ Lý. Nước của vua họ Lý ra đời ngay sau khi
Lữ hậu mất tức xảy ra chính biến ở kinh đô nhà Hiếu (Tây Hán) với kết
qủa là phe trung thành với dòng họ Lý của Lý Bôn – Lưu Bang thắng , 2 đại tướng quân họ Lữ chỉ huy
2 đại quân Bắc và Nam đều bị giết , đương kim hoàng thượng do Lữ hậu
đặt lên trước khi qua đời bị hạ bệ và thay bằng Đại vương Lý Hằng
(Lưu) con của Lý Bôn – Lưu Bang và Bạc phu nhân ,
với biến cố trên thì họ Lữ không còn chỗ đứng ở Trường An nhưng với
thế lực đã được Lữ hậu chuẩn bị bố trí trong suốt những năm nắm
quyền thì họ Lữ chắc không chịu ngồi yên chờ chết .
Sử thuyết Hùng Việt đặt ra 1 gỉa thuyết lịch
sử ; khi những đại thần tướng lãnh
trung thành với họ Lý của Lý Bôn đưa Đại vương Hằng lên ngôi vua ở
Trường An thì ở quê hương Phong – Bái cuả Lý Bôn – Lữ hậu , gia tộc họ
Lữ (sử viết là ‘Lữ Gia’) cũng tôn 1 người con hay cháu Lý Bôn lên làm
vua lập ra triều đình nhà Hiếu phương Nam
ở Quảng Châu , Thiên hạ chia 2 thành Nam và Bắc triều , vị vua
đầu tiên triều Hiếu phương nam gọi là Triệu Mạt tức Chủ một – chuá thứ
nhất tên là Lý Cẩn hoặc Lý Thân (trùng tên với Lý ông Trọng) hiệu là Văn đế , Lý Bôn được tôn làm Vũ đế tổ của Triều đại nhà Hiếu
phương Nam , nhà họ Lữ (Lữ Gia) làm tể tướng đứng đầu triều đình đối nghịch với triều đình nhà Hiếu
phương bắc ở Trường An .
Sử thuyết Hùng Việt cho năm 221 TCN Thủy hoàng
lên ngôi thì đất Âu Lạc cũ đã thuộc lãnh thổ Tần gồm các quận : Tam
Xuyên - Tứ thủy - Lang gia và Tượng , (việc nhà Tần năm 218 TCN chiếm
đất Lục dương chia thành 3 quận Nam hải Quế lâm và Tượng quận chỉ là
chuyện tưởng tượng cuả đám ‘cạo sử gia’) Triệu Đà Nam Việt đổi Tam
xuyên thành quận Giao chỉ , Tứ thuỷ thành quận Cửu chân , khi Lộ bác Đức tái chiếm Nam Việt thì
lập thêm quận mới là Nhất nam nay là Quảng Tây .
Lộ bác Đức
chiếm được Nam Việt , nhà Hiếu chia đất Nam Việt cũ thành 9 quận , lãnh thổ Nam
Việt ngang vạn dặm là cả vùng Hoa Nam không phải như sử sách cũ đã
chép .
Nam Việt mất con cháu Triệu Một - Lữ Gia chạy sang phía tây tụ cư ở nam quận Tượng và quận Lang Gia cũ thời Tần , sau lập nên nước Nam Chiếu lừng lẫy 1 thời .
Nam Việt mất con cháu Triệu Một - Lữ Gia chạy sang phía tây tụ cư ở nam quận Tượng và quận Lang Gia cũ thời Tần , sau lập nên nước Nam Chiếu lừng lẫy 1 thời .
Thông tin về nước Nam Việt hiện rất mù mờ , đa phần chi tiết là sự ‘chế
biến’ từ sử liệu họ Triệu nhà Tần .
Ngoài việc Tử Sở – Triệu Cơ đẻ ra chuyện
tình Trọng Thủy – Mỵ châu , Triệu Cơ – Lã bất Vi được phóng tác
thành chuyện Thái Hậu Cù Thị – An quốc Thiếu qúy thì :
Triệu Chính Tần thuỷ hoàng chế thành Nam
Việt Triệu Vũ đế
Doanh hay Triệu Hồ Hợi chế thành Nam
Việt Triệu Hồ - Triệu Văn vương
Doanh hay Triệu Tử Anh biến ra Nam
Việt Triệu Anh Tề
Việc khám phá lăng mộ vua Nam Việt ở Quảng
châu với kết qủa không ngờ ... nước Nam Việt không hề có Văn vương - Triệu
Hồ con Trọng Thủy – Mỵ Châu chỉ có Văn đế -Triệu Mạt không biết con
nhà ai ...khiến việc vốn đã không rõ ràng lại càng thêm mù mờ... thực
không biết đến bao giờ mới có được trang sử đích thực về nhà Triệu và nước
Nam Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét